(Tiếp theo
và hết).
Khi tìm hiểu về hoàn cảnh ra đời của ca khúc “Đêm đông” của Nguyễn Văn Thương, Tự Điển Bách khoa toàn thư – Wikipedia, tham khảo từ nhiều nguồn khác nhau, đã ghi nhận như sau
:
“…Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương từng chia sẻ: Vào dịp Tết năm 1939 (thời gian này ông đang theo học
tại Trường Thăng Long – Hà Nội), do không có tiền nên ông không thể về quê (cố đô Huế) ăn Tết với gia đình. Lần đầu tiên phải ăn Tết xa nhà, ông rất buồn. Năm ấy, Hà Nội rất rét. Để chống lạnh, có bao quần áo, ông ‘nhồi’ tất vào người. Như bản năng, ông cứ thế rời phòng trọ lững thững đi về phía Ga Hàng Cỏ, và nhớ ra là mình không có vé tàu.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương kể lại: ‘Khi tàu chuyển bánh, tôi cũng theo tàu đi về phương Nam, dọc theo đường Nam Bộ bây giờ. Tiếng còi tàu mỗi lúc một xa càng làm tăng thêm nỗi nhớ nhà da diết! Đến chỗ chắn tàu ở phố Khâm Thiên, tôi chợt nảy ra ý định đi tìm những người cùng cảnh ngộ với mình trong đêm nay. Phố Khâm Thiên hồi ấy có nhiều nhà hát ả đào. Tôi muốn xem trong đêm giao thừa này, có người nào không ở nhà với gia đình mà đi hát. Hoặc ca nhi nào, vì kế sinh nhai mà phải ở lại hành nghề không? Đêm ấy, có hai nhà còn để đèn ngoài cổng để chờ khách. Tôi đi qua nhà đầu tiên. Cửa mở, nhưng không có người ra. Đến nhà thứ hai thì có một ca nhi đi ra mở cửa. Nhưng khi nhìn thấy một cậu thanh niên, tuổi vừa đôi mươi, ăn mặc lôi thôi thì cô ta đã thất vọng. Khi quay trở vào, cô không quên soi mình trong tấm gương treo cạnh cửa, và đưa cánh tay trần vuốt nhẹ lên mái tóc. Tôi còn đi lang thang mãi trên nhiều đường phố Hà Nội tối hôm đó – cho đến khuya, khi thấy các bà mang hương, đèn ra cúng trước thềm nhà tôi mới quay về căn gác trọ số 10 ngõ Hội Vũ. Lên giường nằm, nhưng nỗi nhớ nhà và cảm giác cô đơn nơi đất khách khiến tôi không tài nào ngủ được. Và nảy ra ý định sáng tác một bài hát để nói
lên cảm xúc và suy nghĩ của mình trong đêm giao thừa đầu tiên phải xa nhà. Tôi đã đưa vào ca khúc hình ảnh thực tế đã đập vào mắt tôi lúc đi qua phố Khâm Thiên. Đó là người ‘ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng’. Còn ‘Thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư’ hoặc ‘Cô lữ đêm đông không nhà’ là hình ảnh của bản thân mình – còn ‘chinh phu’”, chinh phụ là những hình ảnh mượn từ trong Tiểu thuyết Thứ Bảy của Tự Lực văn đoàn (8) rất thịnh hành lúc bấy giờ, chứ ta có đi chinh phục ai đâu mà có chinh phu để nói!…”
Về nội dung
ca từ của ca khúc “Đêm đông”, cũng được Bách khoa toàn thư mở dẫn giải sau đây: “Đoạn đầu miêu tả quang cảnh hiu quạnh, cô đơn của người lữ khách – tác giả – trong đêm đông.
Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống.
Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông.
Đôi cánh chim bâng khuâng rã rời.
Cùng mây xám về ngang lưng trời.
Thời gian như ngừng trong tê tái.
Cây trút lá cuốn theo
chiều mây.
Mưa giăng mắc nhớ nhung, tiêu điều.
Sương thướt tha bay, ôi đìu hiu!
“Đoạn sau
thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của tác giả, gồm hai lần điệp khúc.
“Đoạn điệp khúc thứ nhất thể hiện niềm thương cảm tới những số phận giống bản thân tác giả trong đêm đông: ca nhi, thi nhân, chinh phu, chinh phụ.
Đêm đông, xa trông cố hương buồn lòng chinh phu.
Đêm đông, bên song
ngẩn ngơ kìa ai mong chồng.
Đêm đông, thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư.
Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng. (…)
“Đoạn điệp khúc và kết thúc bài thể hiện cảm xúc thương chính bản thân mình và ước mong của tác giả trong đêm đông:
Đêm đông, ôi ta nhớ nhung đường về xa xa.
Đêm đông, ta mơ giấc mơ gia đình, yêu đương
Đêm đông, ta lê bước chân phong trần tha phương.
Có ai thấu tình cô lữ, đêm đông không nhà. (…)
“Trước đây, căn cứ vào giai điệu của bài hát, cũng như vào câu Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông mà có ý kiến cho rằng, bài hát được sáng tác theo chiều hướng phục vụ nhà thờ Công giáo.. Nhưng theo trả lời của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, trích từ lá thư viết ngày 4/11/1997 của ông thì: ‘Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông’. Tiếng chuông buông lững lờ, chỉ có thể là tiếng chuông chùa. Nhưng không cứ gì tôi phải đi ngang qua một ngôi chùa, mà chỉ cần nghe tiếng chuông; thường những người tu tại gia, khi niệm kinh buổi chiều, vẫn thỉnh thoảng gõ chuông từ một gác thờ nào đó. Vì tôi đi từ nhà ra Ga Hàng Cỏ, qua phố Khâm Thiên rồi đi lang
thang khắp các nẻo đường trước khi trở về gác trọ thì có thể nghe được nhiều lần tiếng chuông ấy lững lờ buông. Còn nếu tiếng chuông nhà thờ thì phải dùng chữ chuông đổ, chứ không thể dùng buông lững lờ được…”
Tôi không biết và cũng không tiện hỏi danh ca Bạch Yến, những ngày niên thiếu, khi ba, mẹ chia tay nhau, ở tuổi 14, chị đã phải bương trải để giúp mẹ và các em, có bao lần chị vẫn đứng trên sân khấu, hát mua vui cho khán giả, khi những giây phút giao thừa thiêng liêng, theo truyền thống nghìn đời của người Việt? Nếu có, dù chỉ một lần, tôi tin từ vô thức, chị vốn có chung
một nỗi lòng với nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương, khi ông tâm sự: “…Tôi muốn xem trong đêm giao thừa này, có người nào không ở nhà với gia đình mà đi hát. Hoặc ca nhi nào, vì kế sinh nhai mà phải ở lại hành nghề không?…” Đó là hình ảnh hay tâm trạng của “Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng…”
“Ca nhi” ở đây, chỉ thiếu nữ chọn nghiệp ca hát. Nhưng, không ai cấm, Bạch Yến vốn có trái tim mẫn cảm, có cảm nghĩ khác. Tôi muốn nói, “ca nhi” với chị, cũng có thể hiểu là một “ca sĩ nhi đồng” mới lớn!
Cũng vậy, khi cất tiếng hát ở những câu như: “…Đêm đông, ta mơ giấc mơ gia đình, yêu đương / Đêm đông, ta lê bước chân phong trần tha phương / Có ai thấu tình cô lữ, đêm đông không nhà…” Theo
tôi, Bạch Yến không chỉ hát như một ca sĩ mà, chị đang sống trong tâm cảnh riêng của chính đời mình.
Tôi biết, càng về sau
, càng có nhiều ca sĩ được mời trình diễn ở những thời khắc cuối cùng của một năm. Họ cũng phải xa gia đình. Nhưng, tôi tin, không ca sĩ nào hát “Đêm đông” ở tuổi… “nhi đồng” như Bạch Yến. Hầu hết, họ đã ở tuổi trưởng thành. Và, cũng không một ca sĩ nào, ở tuổi Bạch Yến, hát “Đêm đông” với những vết thương chưa kịp lên da non! Đó là những sự kiện:
“…Mẹ con Bạch Yến sống chen chúc trong một căn nhà nhỏ ở một con hẻm trên đường Cao Thắng nhưng cũng chẳng được bình yên. Một cơn hỏa hoạn đã thiêu rụi căn nhà này thành tro bụi. Một ông cậu ruột của Bạch Yến từ Cần Thơ lên, nảy ra ý định thành lập một gánh xiếc môtô bay thiếu nhi, lưu diễn khắp miền Nam để kiếm sống. Bạch Yến cùng với chị ruột, em trai và em họ đi theo cái nghề nguy hiểm này trong nỗi lo ngay ngáy của người mẹ. Một lần biểu diễn tại Thị Nghè, khi đang bay môtô trên độ cao 4 mét, Bạch Yến đã đạp nhầm thắng và rơi xuống sàn gỗ, bị chiếc môtô đè lên người, gãy ba xương sườn, màng tang trái bị chấn thương, phải điều trị mất một thời gian dài. Đoàn môtô bay của ông cậu cũng ngưng hoạt động sau tai
nạn này!…” (9)
Nên, vẫn theo tôi, đó là định mệnh bất khả tư nghì của tài năng thiên bẩm, mang tên Bạch Yến vậy.
Du Tử Lê
(Calif. May. 2014)
_________
Chú thích:
(8) Có thể vì tuổi tác, nên nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương đã lầm lẫn khi nói “Tiểu Thuyết Thứ Bảy của nhóm Tự Lực Văn Đoàn”. Sự thực chẳng những họ không liên hệ gì với nhau mà còn là đối thủ của nhau nữa. Về sự kiện này, Bách Khoa Toàn Thư Mở – Wikipedia, có đoạn nguyên văn như sau: “…Nhiều nhà văn viết cho Tiểu Thuyết Thứ Bảy sau này đã trở thành những văn sĩ lớn trên văn đàn Việt Nam. Là một đối thủ cạnh tranh của tờ Phong hóa, tờ báo của nhóm Tự lực văn đoàn cùng thời (…) Nhiều nhà văn có tài ở Bắc Kỳ, thời trước Cách Mạng Tháng Tám không được Tự lực văn đoàn dung
nạp đều viết cho Tiểu thuyết thứ bảy và các báo khác của nhà xuất bản Tân Dân như Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nguyễn Triệu Luật, Ngọc Giao, Thanh Châu…, muộn hơn một chút là Vũ Bằng, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao…”
(9) Yên Huỳnh, bđd.
http://dutule.com/D_1-2_2-44_4-6121_5-10_6-1_17-12_14-2_15-2_10-459_12-1/tuong-quan-giua-tieng-hat-bach-yen-va-noi-dung-dem-dong.html