Tuesday, September 16, 2014
Tiếng nước tôi: Văn-học dân-gian (4) / Dân ca Bắc Bộ
- Dân ca
Chúng ta đã xem qua Thành ngữ (những từ-ngữ bóng bảy dùng trong đời sống hàng ngày), Tục ngữ (đúc kết kinh-nghiệm sống dân gian), và Ca dao (những câu hát ngắn bộc lộ tình cảm dân gian).
Xin mời các bạn chiêm ngưỡng và hãnh diện với viên ngọc quí trong kho tàng văn-học dân-gian, thuần tuý, phong phú và phức tạp nhất: Dân ca.Dân-tộc nào cũng có một nền âm-nhạc “truyền-thống” hay “cổ-truyền” (musique traditionnelle / traditional music), so với cái gọi là “tân nhạc” ít nhiều chịu ảnh-hưởng các nền văn hoá khác.
Nhạc cổ-truyền gồm có:
– Nhạc nghi lễ, dùng trong cung đình hay nhạc nghi lễ, tế tự (hát văn thờ, văn hầu, chầu văn hay là hát bóng phục vụ cho việc lên đồng, nhạc đám ma, …), tôn-giáo (nhạc Phật giáo với các điệu tụng, niệm, tán, nhạc Cao-Đài với các điệu Nam Xuân, Nam Ai, Oán, …)
– Nhạc thính phòng: nhạc chuyên nghiệp dân gian có nhạc cụ phối hợp với giọng hát: Hát Ả Đào, còn gọi là Ca Trù ở miền Bắc, Ca Huế ở miền Trung, và Đàn/Ca Tài Tử ở miền Nam.
– Nhạc sân khấu: nhạc tuồng, nhạc ca kịch như hát bội, hát chèo, hát cải lương, hát Tân-cổ,…
– Nhạc dân ca.Dân ca là một thể loại ca hát dân gian, chủ yếu phát xuất từ môi-trường nông-ngư-nghiệp ở thôn làng, rất có thể bắt đầu từ một cá nhân có năng khiếu dệt nhạc vào một bài ca dao (thơ dân gian), rồi được truyền miệng và nhào luyện, uốn nắn, gọt dũa qua nhiều người trong tập thể, từ làng này đến làng khác, từ thời này qua thời khác, có thể sinh ra nhiều dị bản khác nhau, thường khó xác định được gốc phát xuất.
Nước Việt Nam ta, với gần 80 triệu người Việt và 15 triệu người thuộc 53 sắc tộc khác nhau thừa hưởng một truyền thống dân ca thật phong phú và đa diện.
Dân ca lại mang một màu sắc địa phương đặc biệt, tùy theo phong tục, ngôn ngữ, giọng nói, và âm nhạc tính từng vùng mà khác đi đôi chút. Nhưng nhìn chung, vẫn là bài hát thoát thai từ lòng dân quê với tính chất mộc mạc, giản dị của nó.
Tính cách địa-phương xem như rất rõ rệt nên tôi xin được phân-loại dân ca qua tiêu chuẩn Bắc-Trung-Nam.Ngoài ra, dân ca Việt-Nam rất ư là đa dạng và phức-tạp nên trong phạm-vị của những bài tham-khảo này, tôi chỉ dám giới thiệu qua vài điểm chính chứ không dám vào sâu hơn.
4.1 Dân ca Bắc bộ
Đồng bằng và Trung du Bắc Bộ là một vùng dân ca lớn. Những sinh hoạt ca hát dân gian ở đây mang đậm dấu ấn văn hóa cổ truyền của dân tộc, mà chừng mực nào đó, ở mỗi thể loại đều phản ánh những sinh hoạt tinh thần của cộng đồng, xã hội người Việt xưa.
Những lễ nghi, lề lối, thủ tục… gắn bó với hội hè, đình đám, lễ lạc theo mùa vụ, mà nổi trội lên là hội Thu và hội Xuân, ảnh hưởng trực tiếp đến hình thức diễn xướng và hình thành đặc trưng nghệ thuật riêng cho mỗi thể loại.
Hát Trống quân, hát Quan họ, hát Xoan…với lề lối và thể hát đối đáp, giao duyên nam nữ, những lễ thức tín ngưỡng,…đều chứa đựng yếu tố phồn thực trong đời sống tinh thần của cư dân nông nghiệp người Việt cổ. Những tín hiệu văn hóa có tính cội nguồn đó rất đặc trưng cho vùng Bắc bộ.4.1.1 Hát hội
(Dân ca Việt-Nam, Trần Quang Hải
http://vietsciences.free.fr/vietnam/tiengviet/dancavietnam.htm)
Hát hội là loại hát đối đáp giữa trai gái tùy hứng ca hát đối đáp, thi tài cao thấp trong những dịp lễ đầu xuân hay thu, hoặc khi đêm trăng thanh gió mát sau một ngày làm việc mệt nhọc ngoài đồng.
Hát hội có nhiều loại: hát trống quân, hát quan họ, cò lả ở vùng Bắc Ninh, hát đúm ở Hải Dương, hát phường vải ở Nghệ Tĩnh, hát ghẹo, hát xoan ở Phú Thọ, v.v..Đặc điểm chung như sau:
– Người hát, làng xã, phải đối nhau chẳng hạn nhóm (“bọn”) nam ca sĩ đối lại với nhóm (“bọn”) nữ ca sĩ, và thuộc làng xã khác nhau.
– Hầu hết đều là tình ca.
– Ðặc tính đoàn thể rất được nhấn mạnh, như trong quan họ có tục kết bạn và phải thuộc vào gia đình quan họ.
– Thi đua là một trong những đặc tính quan trọng. Trong một cuộc hát đối, các người hát thi đua về trí nhớ, lời ca, óc nhạy bén, phải tùy cơ ứng biến, khi gặp khó khăn, tài sáng tác tùy hứng, và kỹ thuật ca hát phải có trình độ cao. Do đó, các làng xã xứ ta thường hay tổ chức hát lấy giải.
– Ðặc tính bán chuyên nghiệp. Người hát quan họ phải thuộc một số bài căn bản, phải luyện tập thường xuyên. Do đó mới có tục lệ ngủ bọn, nghĩa là các người hát cùng chung một nhóm thường tựu hợp ở nhà của một người trong bọn, ăn ngủ tại đó để có thì giờ học tập với nhau và tập hát gọi là bẽ giọng.Tiến-trình mỗi cuộc thi hát như thế thường chia làm ba hay bốn giai đoạn:
– Hát mời ăn trầu trong trống quân; Hát giọng lề lối trong quan họ; Hát dạo, hát chào, hát mừng, hát hỏi trong hát phường vải; Hát dạo, hát mừng, hát thăm trong hát ghẹo.
– Sau khi hát mở đầu thì đến phần hát thi. Phần này, bắt đầu các bài hát khó vì phải sáng tác tại chỗ, như hát trả lời câu đố trong trống quân, giọng sỗng, giọng vặt trong quan họ,hát đố, hát đối trong phường vải, và hát đối, hát đố, hát xe kết trong hát ghẹo. Chẳng hạn như trong bài hát trả lời câu đố trong trống quân, bên gái ra câu đố thì bên trai phải giải cho trúng và đố lại. Bên nào không đối được thì kể như thua. Loại hát này được đệm bằng một nhạc khí đặc biệt là cây trống quân hay thổ cô. Một cây mây dài bốn, năm thước căng vòng cầu bắt ngang một cái hố được đào ngay điểm giữa cây mây. Một người hát đánh vào cây mây để đệm, tạo âm thanh giống như tiếng trống.
– Cuộc thi hát tiếp tục sang giai đoạn ba với các bài hát khen tặng trong trống quân, hát mời, hát xe kết trong phường vải, và giọng hãm, giọng huỳnh trong quan họ.
– Sau cùng là hát tiễn như trong phường vải, hát giã bạn trong quan họ, hát thề, hát dặn, hát tiễn trong hát ghẹo.4.1.1.1 Quan họ Bắc Ninh
Đặc biệt và phức tạp nhất có lẽ là thể-loại này. Lề lối ca hát Quan họ mang tính chất quy củ, khuôn phép chặt chẽ và tác động đến sự giữ gìn, phát triển Quan họ.
Quan họ Bắc Ninh tập trung chủ yếu ở vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang).
Đây là môn nghệ thuật được hợp thành bởi nhiều yếu tố như âm nhạc, lời ca, phục trang, lễ hội … với một lối hát giao duyên dân dã, thể hiện mối quan hệ gắn bó tình nghĩa giữa những liền anh, liền chị hát quan họ và là nét văn hóa tiêu biểu của người dân vùng Kinh Bắc. Tuy nhiên, theo tập tục cổ truyền, trai gái trong các nhóm kết bạn hát với nhau lại không bao giờ lấy nhau.
Trải qua một quá trình phát triển lâu đời trên một vùng đất có sự giao lưu rộng và phát triển sớm, Hát Quan họ đã trở thành một điểm sáng trong dân ca Việt Nam. Dân ca Quan họ có khoảng 180 bài khác nhau , không tính các dị bản – một trong những kỷ lục của các thể loại dân ca Việt Nam.
Một vài bài hát quen thuộc: Bèo dạt mây trôi; Cây trúc xinh; Con nhện giăng mùng; Qua cầu gió bay; Se chỉ luồn kim; Người ơi, người ở đừng về; …
Lời hay ý đẹp, ngôn ngữ bình dân nhưng tinh tế, ý nhị, giàu hình tượng và cảm xúc, âm điệu phong phú, trữ tình, lối hát mượt mà với kỹ thuật nảy hạt độc đáo, phong cách lịch thiệp – tất cả làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của dân ca Quan họ Bắc Ninh.
Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, quan họ đã được công nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại.
4.1.1.2 Hát Trống Quân
Hát Trống Quân là hình thức sinh hoạt ca hát giao duyên rất phổ biến ở các tỉnh đồng bằng và Trung Du Bắc Bộ, kể từ Thanh Hoá trở ra.
Tục truyền, hát Trống Quân xuất hiện vào đời nhà Trần, thời kháng chiến chống quân Nguyên, binh sĩ khi giải trí ngồi thành hai hàng đối nhau, một bên là “Hát xướng”, một bên là “Hát đáp”, khi hát gõ vào tang trống để làm nhịp.
Khi hát Trống Quân có trống dẫn nhịp. Người ta còn gọi là trống này là Trống thùng.
Trống thùng được cấu tạo như sau: Hai cọc được được cắm ở hai bên, một bên cọc là phe nam, một bên cọc là phe nữ đứng (hoặc ngồi). Một sợi dây thừng được buộc vào hai cọc, chính giữa sợi dây đặt một cái thùng, mặt rỗng úp xuống một hố đất nhỏ, mặt đáy trên sát sợi dây. Người ta gõ vào đầu dây ở phía cọc, dây bật vào đáy thùng mà kêu thành tiếng.
Về âm nhạc, Trống Quân là một làn điệu gần với tiếng nói hơn. Vì lời ca là thơ lục bát và mỗi lần hát có thể dài ngắn khác nhau, nên giai điệu biến đổi theo dấu giọng, Trống Quân lấy đối lời làm chính và được diễn xướng ở tốc độ nhanh vừa, lời ca chỉ có vài tiếng đệm nhằm phục vụ cho việc xây dựng giai điệu như: thời, có mấy, hời, ư, nầy, rằng…
4.1.1.3 Hát ghẹo, hát xoan Phú Thọ
Nguồn gốc hát ghẹo được gắn với câu chuyện dựng lại ngôi đình làng Nam Cường thờ Xuân Nương công chúa.
Chuyện kể rằng ngôi đình làng thờ nữ tướng Xuân Nương bị cháy, trai tráng Nam Cường cùng nhau lên rừng đại ngàn kiếm gỗ về dựng lại đình. Đến địa phận xã Thục Luyện, mệt quá, trai tráng ngồi nghỉ chân, trai gái Mường biết vậy liền đưa thịt rừng rượu thơm ra đãi. Lại cùng nhau lên rừng ngả gỗ đóng bè cho trôi theo dòng sông xuôi về. Qua địa phận xã Thục Luyện bè bị mắc cạn, đẩy mãi không qua, những cô gái Mường ở thôn Hùng Nhĩ đi hái mǎng về bèn khuyên vừa đẩy bè vừa hát thì thần thác mới hài lòng để cho bè xuôi. Quả thật, khi trai gái hai bên cùng nhau đẩy và hát đối đáp với nhau thì bè nhích dần rồi chảy về xuôi.
Thác thần từ đó được gọi là thác “đôi ta”, khúc hát đẩy bè trên được gọi là “hát ghẹo” hay “ghẹo nước nghĩa” (nghĩa là hát giữa các thôn làng kết nghĩa với nhau), “hát anh chị”.
Cách hát là hình thức hát đối đáp nam nữ, nên các anh cũng như các chị mỗi lần thường hát hai người, khi hát họ nhìn thẳng vào nhau vừa để biểu lộ tình cảm vừa để khi hát ra vào cho ǎn khớp với nhau.
Hát Xoan là một loại dân ca độc đáo, tồn tại lâu đời ở hai xã Kim Đức và Phượng Lâu, thuộc huyện Phù Ninh cũ. Nay là huyện Phong Châu và thành phố Việt Trì.
Trước đây, hát Xoan thường được trình diễn vào mùa xuân trong những ngày hội đám ở một số đình làng trong tỉnh, nên còn được gọi là Hát cửa đình. Chữ Xoan là từ chữ Xuân đọc trẹo ra.
4.2 Vài loại nhạc cổ-truyền Bắc Bộ
4.2.1 Ca trù
(Ca trù, Wikipedia, http://vi.wikipedia.org/wiki/Ca_tr%C3%B9)
Hát ca trù là một bộ-môn nghệ-thuật truyền-thống miền Bắc, kết hợp hát cùng một số nhạc cụ dân tộc. Ca trù thịnh hành từ thế-kỷ 15, từng là một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và trí-thức yêu thích. Ca trù là một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc.
Ngày 1 tháng 10 năm 2009, ca trù đã được UNESCO công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Ca trù là dạng nghệ thuật âm nhạc thính-phòng dùng nhiều thể văn chương như thể phú, thể truyện, thể ngâm, nhưng thể văn chương phổ biến nhất là hát nói.
Thành phần trình-diễn gồm có:
Một nữ ca sĩ (gọi là đào hay ca nương) sử dụng bộ phách gõ lấy nhịp,
Một nhạc công nam giới (gọi là kép) chơi đàn đáy (hay Vô đề cầm) phụ họa theo tiếng hát,
Người thưởng ngoạn (gọi là quan viên, thường là tác giả bài hát) đánh trống chầu (haytrống đế) chấm câu và biểu lộ chỗ đắc ý bằng tiếng trống.
4.2.2 Hát chèo
(Chèo, Wikipedia http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A8o)
Chèo là một loại hình nghệ-thuật sân-khấu dân-gian Việt-Nam. Chèo phát triển mạnh ở phía bắc Việt Nam mà trọng tâm là vùng đồng-bằng Bắc-Bộ.
Loại hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân-tộc. Chèo mang tính quần chúng và được coi là một loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung-Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch Nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền thống Việt Nam là chèo.
Chèo bắt nguồn từ âm-nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế-kỷ 10.
Qua thời gian, người Việt đã phát triển các tích truyện ngắn của chèo dựa trên các trò nhại này thành các vở diễn trọn vẹn dài hơn. Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sỹ quân đội Mông-Cổ đã bị bắt ở Việt nam vào thế-kỷ 14. Binh sỹ này vốn là một diễn viên nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của nghệ thuật do người lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát.
Không giống Tuồng chỉ ca tụng hành động anh hùng của các giới quyền quý, Chèo còn miêu tả cuộc sống bình dị của người dân nông thôn. Nội dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ-tích, truyện Nôm.
Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại-hình nghệ-thuật dân-gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể chuyện, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng.
Một số vở chèo tiêu biểu: Chu Mãi Thần, Hoàng Trìu kén vợ, Lưu Bình Gương Lễ, Quan Âm Thị Kính…
4.2.3 Hát xẩm
Trong bài hát “Thằng Cuội”, có hai câu:
“… Các con dế mèn suốt trong đêm khuya
Hát xẩm không tiền nên nghèo xác xơ…”
Xẩm là một loại hình dân ca phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ.
“Xẩm” cũng còn được dùng để gọi những người hát xẩm – thường là người khiếm thị – đi hát rong kiếm sống và do đó hát xẩm còn có thể coi là một nghề.
Bộ nhạc cụ đơn giản nhất để hát xẩm chỉ gồm đàn nhị (đàn hai giây) và sênh (nhạc cụ gõ để đệm nhịp). Nhóm hát xẩm có thể dùng thêm đàn bầu, trống mảnh và phách bàn.
Để thay cho đàn nhị truyền thống, có thể dùng đàn gáo, loại đàn được phát triển từ đàn nhị nhưng to và dài hơn, thích hợp khi đệm cho giọng trầm.
Sênh dùng đệm nhịp cho hát xẩm có thể là sênh sứa (gồm hai thanh tre hoặc gỗ) hoặcsênh tiền (có gắn thêm những đồng tiền kim loại để tạo âm thanh xúc xắc).
Ngoài ra, đàn đáy, trống cơm, sáo và thanh la cũng có thể hiện diện trong hát xẩm.
Xẩm có hai làn điệu chính là xẩm chợ và xẩm cô đầu.
Hát xẩm chợ, điệu hát mạnh, những tiếng đệm, tiếng đưa hơi đều hát nổi tiếng bằng lời hát chính và đệm đàn bầu hay nhị với sênh phách; còn hát xẩm cô đầu thì điệu hát dịu dàng hơn, những tiếng đệm và tiếng đưa hơi lẫn vào lời chính, cốt giúp cho có nhiều dư âm và bắt khúc được dễ dàng.
Xẩm tàu điện của người Hà Thành
(http://petrotimes.vn/news/vn/van-hoa-giai-tri-the-thao/xam-tau-dien-cua-nguoi-ha-thanh.html)
Thế kỷ XX, phương tiện đi lại ở Hà Nội chủ yếu là xe tay kéo và tàu điện. Nơi đây đã sản sinh ra một nhánh trong loại hình nghệ thuật diễn xướng độc đáo của dân tộc, đó là xẩm tàu điện.
Mặc dù xẩm có nhiều loại nhưng xẩm tàu điện thì chắc chắn chỉ Hà Nội mới có. Nếu ca trù, hát cô đầu là “đặc trưng” của phố Khâm Thiên, thì hát xẩm là đặc trưng của chợ Đồng Xuân và phố cổ.
Xẩm tàu điện khác với xẩm chợ, xẩm lễ hội là luôn phải chuyển tàu, chuyển toa tìm khách mới nên các đoạn hát thường ngắn gọn, luôn thay đổi nội dung nếu không khách sẽ chán vì phải nghe đi, nghe lại, nhất là các khách thường ngày đi tàu.
Cho đến tháng 2 năm 2013, tỉnh Ninh Bình với nghệ nhân Hà Thị Cầu (1928-2013) được coi là người hát xẩm cuối cùng của thế-kỷ.
Yên Hà
Tháng chín, 2014
Xin đón đọc trong số tiếp: Tiếng nước tôi: Văn-học dân-gian (4) / Dân ca Trung Bộ
Tài-liệu nguồn:
Dân ca Việt Nam
http://vi.wikipedia.org/wiki/D%C3%A2n_ca_Vi%E1%BB%87t_Nam
Dân ca Việt Nam
http://dancavietnam.net/home.dcv
Sơ lược về dân ca Việt Nam, Trần Quang Hải
http://tranquanghai.info/p566-so-luoc-ve-dan-ca-viet-nam.html
Dân ca Việt Nam, Trần Quang Hải
http://vietsciences.free.fr/vietnam/tiengviet/dancavietnam.htm
Trang dân ca Việt-Nam, X.T.
http://www.hailinhquehuong.net/DanCa.htm/www.hailinhquehuong.net/DanCa.htm
Cổ truyền dân gian
http://nhaccotruyen.vn/main/CTdangian.htm
Quan họ Bắc Ninh (Di sản văn hoá phi vật thể)
http://www.vietnamtourism.com/disan/index.php?catid=17
Hát Trống Quân, Wikipedia
http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A1t_Tr%E1%BB%91ng_Qu%C3%A2n
Hát ghẹo
http://www.vietnamtourism.com/v_pages/country/overview.asp?uid=2481
Hát xoan, Hát ghẹo Phú Thọ – Dân ca độc đáo Phú Thọ, Trần Quang Hải
http://tranquanghai.info/p2815-hat-xoan,-hat-gheo-phu-tho_-dan-ca-doc-dao-phu-tho.html
Ca trù, Wikipedia
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ca_tr%C3%B9
Chèo, Wikipedia
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A8o
Xẩm, Wikipedia
http://vi.wikipedia.org/wiki/X%E1%BA%A9m
Xẩm tàu điện của người Hà Thành
http://petrotimes.vn/news/vn/van-hoa-giai-tri-the-thao/xam-tau-dien-cua-nguoi-ha-thanh.html
http://phu-tran.blogspot.fr/2014/09/tieng-nuoc-toi-van-hoc-dan-gian-4-dan.html