Chuyên đề 1 – LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CA HUẾ TRONG TRUYỀN THỐNG ÂM NHẠC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM 14-02-2014
Thân Trọng Bình
1. Từ khởi nguyên đến tiếp biến, giao thoa
Ca Huế cùng với Ca trù (Ả đào) ở miền Bắc và Ca nhạc tài tử Nam Bộ là 3
thể loại thuộc dòng âm nhạc thính phòng, đại diện đỉnh cao của thể loại thanh
nhạc trong di sản của âm nhạc truyền thống Việt Nam, mang tính chuyên
nghiệp, bác học. Đây là 3 thể loại âm nhạc có một hệ thống bài bản phong phú,
cấu trúc giai điệu hoàn chỉnh, với nhiều lối rung giọng, đổ hột, luyến láy mang
đặc trưng của 3 miền, lời ca giàu chất văn học, kỹ thuật ca hát tinh tế, điêu
luyện, có yêu cầu cao về hệ thống nhạc đệm, môi trường diễn xướng chọn lọc,
quan hệ giữa người diễn và người nghe là quan hệ tri âm, tri kỷ, đồng điệu.
Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và âm nhạc Huế thời điểm ra đời
của Ca Huế là vào khoảng thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII. Đây là giai đoạn yên
bình và cực thịnh của các Chúa Nguyễn ở xứ Đàng Trong. Thời kỳ hưng thịnh
nhất của Ca Huế là vào thế kỷ XIX, thời Tự Đức (1847 – 1883) khi Phú Xuân –
Huế đã trở thành kinh đô của nước Đại Nam thống nhất. Ca Huế là thú vui tao
nhã dành cho các ông hoàng, bà chúa, các văn nhân, nho sĩ, quan lại ở chốn kinh
Nguồn gốc của Ca Huế bước đầu được rút ra từ Tế nhạc cung đình như các
bài bản Long ngâm, Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, 10 bài liên hoàn. Sau đó là
những sáng tác mới của các ông hoàng, bà chúa, các văn nhân, nho sĩ, các nhạc
công tài năng dưới triều Nguyễn.
Từ năm 1938 trong cuốn “Việt Nam văn hóa sử cương” của GS. Đào Duy Anh
cũng đã đề cập đến Ca Huế, theo giáo sư: “Từ khi các Chúa Nguyễn vào Đàng
Trong, âm nhạc Bắc đã chịu ảnh hưởng âm nhạc Chiêm Thành tạo ra các khúc
1
nhạc như Nam ai, Nam bình, Nam xuân có vẻ trầm bi oán vọng, những cung Bắc
(Khách) như Lưu thủy, Cổ bản, Phú lục, 10 bản Tàu thì có vẻ linh hoạt vui vẻ và
mạnh mẽ hơn”. Giáo sư cũng cho biết trong khi âm nhạc ở Đàng Ngoài đang suy
vong thì âm nhạc ở Đàng Trong “nhờ các Chúa Nguyễn cùng các bậc vương công
ham chuộng, nhờ ảnh hưởng của Chiêm Thành nên phong phú và thịnh vượng.
Nhiều nhà quý phái như ông hoàng Nam Sách, ông phò Trần Quang Phổ ở đời Tự
Đức là tay danh cầm xưa nay không ai hơn nổi”.
Ca Huế được nối tiếp qua nhiều thời kỳ trong lịch sử. Cuối thế kỷ XIX và đầu
thế kỷ XX cũng có nhiều danh ca, danh cầm về Ca Huế nối gót các bước đi của
tiền nhân. Từ 1945 đến năm 1975, mặc dù có những biến động về mặt lịch sử,
nhưng truyền thống Ca Huế vẫn luôn được bảo lưu tại các nhà của các nhạc sĩ,
nhạc công, những người yêu mến Ca Huế tại Cố đô Huế và một số thành phố lớn
như Hà Nội, Sài Gòn.
Như vậy Ca Huế là một thể loại âm nhạc có nguồn gốc và xuất xứ từ lâu đời
của dân tộc Việt. Nó chính thức ra đời và hình thành là vào khoảng thế kỷ thứ
XVII và XVIII, đây là thời kỳ yên bình và cực thịnh của các Chúa Nguyễn ở xứ
Đàng Trong, là thú vui ca nhạc tao nhã của các ông hoàng, bà chúa, các vị quan
lại, văn nhân, nho sĩ của đất kinh kỳ. Một số bài bản của nó bước đầu được lấy
ra từ tế nhạc cung đình và dần dần về sau là các sáng tác của các ông hoàng, bà
chúa, các văn nhân, nho sĩ, các ca công, nhạc công tài năng đã dần dần định
hình cho thể loại Ca Huế vào thế kỷ XIX dưới triều Vua Tự Đức – một ông Vua
rất thông minh, có tài văn học, thích nghiền ngẫm kinh điển Nho giáo, uyên bác
về Nho học và Khổng học, luôn quan tâm đến các loại hình nghệ thuật. Như
nhận xét của TS.Lê Văn Hảo trong cuốn “Huế giữa chúng ta”: “Ca nhạc Huế là
thuộc dòng nhạc cổ điển, tài sản chung của dân tộc nhưng lại một loại nhạc
mang nhiều màu sắc địa phương. Nhạc điệu của ca nhạc Huế bắt nguồn từ ca
nhạc dân gian Bình Trị Thiên và thanh âm của ca nhạc Huế phát sinh từ tiếng
2
nói, giọng nói của người dân xứ Huế. Quê hương của ca nhạc Huế chính là xứ
Huế tức là vùng đất kinh kỳ Thuận Hóa, Phú Xuân”.
Và sau này trong nhạc hội Ca Huế lần thứ nhất tổ chức tại Huế vào năm 1977,
nhạc sĩ Lưu Hữu Phước, nguyên Viện trưởng Viện Âm nhạc Việt Nam đã khẳng
định: “Trong toàn bộ vốn ca nhạc cổ truyền của dân tộc, một kho tàng quý báu
vô giá là nền nghệ thuật ca nhạc Huế của chúng ta (…). Nghệ thuật ca nhạc Huế
là một cột mốc lớn đánh dấu một giai đoạn phát triển của văn hóa dân tộc, đồng
thời là một cơ sở xuất phát cho những làn sóng ca nhạc rộng lớn tràn khắp châu
thổ sông Cửu Long đến mũi Cà Mau, cũng như ngược dòng Nam tiến ảnh hưởng
trở lại nơi địa bàn chôn rau cắt rốn của dân tộc là vùng châu thổ sông Hồng,
sông Thái Bình, sông Mã, sông Cả và miền trung du Bắc Bộ”.
Sử liệu đã chứng minh rằng, Ca Huế mang rõ nét tính chất đặc thù địa
phương nhưng nó đã không chỉ bó hẹp trong một xứ Huế. Ngoài yếu tố đặc thù
và một số đặc điểm vốn có của mọi thể loại âm nhạc cổ truyền thì Ca Huế vẫn là
khởi nguyên từ văn hóa nghệ thuật cội nguồn Thăng Long, hội tụ từ truyền thống
văn hóa âm nhạc dân tộc. Vì vậy trong giai đoạn phát triển thịnh đạt, Ca Huế đã
lan tỏa, thâm nhập trở lại với cội nguồn và trở thành một thành phần tương hợp
trong hầu hết dân ca vùng Trung du và đồng bằng Bắc bộ. Chẳng hạn: hơi Huế,
giọng Lý, giọng Kinh ở khối giọng Vặt, giọng Ngoại trong hát Quan họ, hát
Xoan, hát Ghẹo, hát Chèo v.v…
Một số tài liệu công bố vào nửa đầu thế kỷ XX cho ta biết Ca Huế có một
thời được gọi là Ca lý, Lý kinh: “Lối ca lý thịnh hành trước ở trong Kinh, Quảng,
rồi dần dần lan mãi ra ngoài Bắc, lối này phải đặt theo dịp đàn mà hát theo tiếng
Kinh, Quảng; Sài Gòn cũng có một lối hát lý giống như Lý kinh. Nhưng xét ra lối
hát lý thời phần nhiều là những điệu bi ai, thê thảm, hay là giọng huê tình, dễ
khiến người ta chau mày mà rơi lụy.”… Các ấn phẩm tại Hà Nội thời kỳ này cho
biết Ca Huế và kể cả nhạc Tài tử được giới cầm ca Hà thành gọi là “Ca lý”. Các
3
tuyển tập lời hát các điệu Ca Huế như “Các bài Ca lý” xuất bản tại Phúc An hiệu
51, 59 phố Hàng Gai, Hà Nội năm 1927 và “Bài hát năm canh”, “Lý giao duyên
vọng phu” năm 1929. Tập “Các bài ca lý” được giới thiệu 9 điệu Ca Huế tiêu
biểu: Cổ bản (3 bài), Nam ai (2 bài), Lưu thủy, Hành vân, Nam thương, Nam
bình, Tứ đại cảnh, Vọng phu và Giao duyên. Qua việc in ấn, kinh doanh, chứng
tỏ sự lan tỏa trở lại với cội nguồn của Ca Huế đối với Thăng Long – Đông Đô giai
Hướng phát triển về phía Nam của Ca Huế thì rõ ràng đã sản sinh ra lối
nhạc tài tử như GS Trần Văn Khê đã nhận xét: “lối nhạc tài tử trong Nam là con
đẻ của lối ca Huế miền Trung”… “Những người học nhạc trong Nam, cũng đàn
Huế – Ông nội chúng tôi, ông Trần Quang Diệm chuyên đàn tì bà theo lối Huế và
cô ruột chúng tôi bà Trần Ngọc Viện cũng thường đàn Cổ bản Huế, kim tiền
Năm 1956 trong bài Việc sưu tầm nghiên cứu của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba,
nhạc sĩ Văn Vao đã rất e dè với vấn đề ảnh hưởng của nhạc Champa trong ca Huế
mà Nguyễn Hữu Ba đã đặt ra: “Tôi không biết được anh đã có những thí dụ gì
chứng minh, nhưng tôi biết rằng phần thắc mắc này của anh còn đợi có phương
tiện đầy đủ mới giải quyết được”. Thái Văn Kiểm trong bài Ảnh hưởng Chiêm
Thành trong ca nhạc Huế lại nhận xét một cách chắc chắn là điệu Nam trong ca
Huế đã “phỏng theo các ca khúc của Chiêm Thành mà đặt ra”. 2
Trong cuốn Đặc khảo về dân nhạc Việt Nam, Phạm Duy có đặt ra giả định:
“Có thể trong dĩ vãng, người Việt ở miền Bắc vốn quen dùng ngũ cung đúng (Do
– Re – Fa – Sol – La), khi Nam tiến đã bị nhạc Chàm (Champa) với ngũ cung Oán
– Fa – Sol – La) quyến rũ, rồi sáng tạo ra ngũ cung Ai (Do – Rê non – Fa
Vĩnh Phúc (Bùi Ngọc Phúc). Âm nhạc cổ truyền Việt Nam qua báo chí nửa sau
TKXX. NXB Thuận Hóa, Huế,
4
già – Sol – La non) chăng?”. Nói về sự giao thoa, tiếp biến với âm nhạc Champa,
cuốn Hòa tấu nhạc cung đình Huế của Thân Văn có nêu: “Thực ra, âm nhạc
người Champa đã từng có mặt trong cung đình nước Đại Việt từ thời Lý (1010-
1225) với điệu Chiêm Thành âm và Vũ khúc Tây Thiên của các vũ nữ Champa.
Do vậy, điệu Nam hơi Ai Huế có thể là do hơi Bắc của người Việt, giao thoa với
điệu thức âm nhạc người Champa mà hình thành. Hơi Ai chủ yếu thấy biểu hiện
trong thang âm, điệu thức Ca Huế, một hình thức ca nhạc thính phòng thời
Nguyễn còn tồn tại cho đến ngày nay”.
Về vấn đề giao thoa giữa âm nhạc Huế với âm nhạc phía Nam, Dương
Bích Hà trong bài viết Âm nhạc cổ truyền xứ Huế trong mối quan hệ bác học và
dân gian có viết: “Ca Huế là một di sản âm nhạc đặc trưng của cư dân Việt tại
trung tâm Thuận Hóa, nơi đã hội nhập vào văn hóa nghệ thuật xứ Đàng Trong
cũng như âm nhạc cung đình các triều đại nhà Nguyễn. Ca Huế đồng thời cũng là
ngọn nguồn sản sinh ra lối “đờn Quảng” ở Nam Trung Bộ và “Đờn ca tài tử” ở
Nam Bộ”.
2. Thuận Hóa (Huế) vẫn là trung tâm hình thành và phát triển Ca
Huế.
2.1. Giai đoạn phát triển và thịnh đạt của ca nhạc Huế (khoảng từ đầu thế
kỷ XIX đến trước ngày thất thủ kinh đô – 1885).
Trong giai đoạn này, ngoài dân gian cũng như chốn cung đình, ca Huế đã
phổ biến rộng rãi. Trong cung đình có một số bài Ca Huế có lời bằng chữ Hán
(10 bài Ngự vừa có lời chữ Hán thông dụng trong cung đình vừa có lời Nôm
thông dụng trong dân gian). Trong những dịp xe vua ra vào cung điện, 10 bài ngự
(10 bài liên hoàn) được ban ngự nhạc của triều đình tấu lên, cõ lẽ đó là những bản
vay mượn từ ca nhạc Huế và bị cung đình hoá.
Năm 1863, Có một tập bài bản ca nhạc Huế khá hoàn chỉnh gồm 25 tác
phẩm khuyết danh, trong đó 10 bài có kèm theo lời ca và 15 bản không có lời ca.
5
Mười bài có lời ca có những bài giống tên với những bài bản thông dụng trong ca
nhạc Huế như: Lưu Thuỷ, Kim tiền, Xuân phong, Hồ Quảng, Nam xuân.
Đây là thời kỳ thịnh đạt nhất của Ca nhạc Huế. Một số ông hoàng, bà chúa
con cháu của Minh Mạng (1820 – 1840) có sáng tác, diễn xướng, hay tổ chức sinh
hoạt ca nhạc thính phòng đó là: Miên Tông (Thiệu Trị), ông Hoàng Nam Sách,
Miên Bửu, Thanh, ông hoàng Miên Thẩm, Miên Trinh, Miên Bửu.
Giai đoạn này còn nhiều nghệ nhân nổi tiếng trong dân gian như Đẩu
nương một ca nhi ở An Cựu, các nhạc công Biên Nhận, Trần Quang Phổ, gia
đình Tống Văn Đạt, Tống Văn Chín, Tống Văn Phước, cậu Ba Toàn…
Danh sách này còn có thể kể thêm các cậu Thứ, cậu Khánh, cậu Trương
Sáu, cậu Cung, các ông Bá Yến, Thông phán Châu Hữu Ninh, Bố chánh Trương
Trọng Hữu, Tiến sĩ Đỗ Huy Liên, Cử nhân Lê Cảnh…
Về nữ có công chúa Huệ Phố vừa là nhà thơ, vừa giỏi đàn, ca kỹ Đầu
nương vang danh với cây đàn Nam cầm và giọng hát tuyệt diệu, bà Thiện, bà Tứ
là những tay lão luyện về nhạc cụ. Ngoài ra, tác giả Hoàng Yến đã kể tên một số
người mà ta chưa rõ tiểu sử như thông phán Tôn Thất Toại giỏi đàn tì bà, ông
Hoàng Mỹ Hoà nổi tiếng về tiêu, quan Thị Tôn Thất Linh; Hầu Chí, chỉ nằm lòng
bài Cổ bản nhưng tài năng của ông được dân chúng truyền tụng.
Trong giai đoạn này ta thấy rõ ca Huế dần dần đã phổ biến ra ngoài dân
gian. Các nhạc công, nghệ nhân giỏi về đàn của ca Huế đông đảo từ trong cung
đình lẫn ngoài dân gian chứng tỏ sự phát triển sinh hoạt ca nhạc thính phòng
trong dinh phủ của các ông hoàng và trong các gia đình quyền thế. Các ông
hoàng bà chúa còn để lại những công trình nghiên cứu về đàn như: Nguyệt cầm
phổ, Nam cầm phổ, ngoài ra Công chúa Ngọc Am, Lại Đức, ông hoàng Miên
Trinh, Tương An quận vương Miên Bửu còn sáng tác những bài ca Huế.
Các vua triều Nguyễn cũng rất thích ca Huế. Như vua Tự Đức đã sử dụng
các nghệ sĩ dân gian tài hoa làm chức suất đội trưởng để điều khiển dàn nhạc như
trường hợp đội Chín, đội Phước con cháu Tống Văn Đạt là một chứng cứ cụ thể.
6
Huế là địa điểm thuận lợi, nơi có thể tập hợp một số nghệ nhân giỏi đàn ca,
xướng hát trong giai đoạn này. Ca Huế trở thành một nhu cầu văn hoá tinh thần
không thể thiếu được ở chốn kinh đô này.
Những nghệ nhân tiêu biểu đặt nền móng cho việc khai sinh nền ca nhạc
Huế. Trước hết phải kể đến những gương mặt nghệ sĩ trong tầng lớp quý tộc từ
thế kỷ XVII – XVIII như chúa Nguyễn Phúc Chu (1675 – 1725), Luân Quốc công
Nguyễn Phúc Tứ (1698 – 1753), Nguyễn Phúc Dục (1727 – 1771)…, những nghệ
sĩ này có thể xem là những người đặt nền móng cho việc định hình và phát triển
của loại hình ca nhạc Huế.
1. Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng Đế Nguyễn Phúc Chu (1675 – 1725).
Bên cạnh những cải cách có tính quyết định cho việc bình ổn xã hội và phát
triển văn hóa của chúa Nguyễn Phúc Chu trong thời gian cầm quyền, trong một
số thư tịch cổ (Thích Đại Sán (1963), Hải Ngoại kỷ sự, Ủy ban dịch thuật, Huế:
Viện Đại học Huế), chúa được nhắc đến như một tay đánh trống tuồng lão luyện,
là một nghệ sĩ lớn của thế kỷ XVIII. Tương truyền chính chúa là người sáng tác
bài “Ai Giang Nam” – tiền thân của bài Nam Ai hiện nay. Tuy nhiên, theo chúng
tôi, đây chỉ là bước kế từ những thành tựu của các thế hệ tiền nhân, đặc biệt là
chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613 – 1635) – thời kỳ âm nhạc rất khởi sắc với sự
kiện Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ thành lập Hoà Thanh Thự (nơi biểu diễn, đồng
thời là nơi tập luyện, đào tạo nghệ sĩ), đúng như nhận định của một số nhà nghiên
cứu: “…các chúa Nguyễn ở Đàng Trong tiếp nối truyền thống thưởng thức âm
nhạc ở Đàng Ngoài mà cho tổ chức các buổi ca nhạc có lời ca ở cung đình” (Trần
Văn Khê (1961), Lối “ca Huế” và lối “nhạc tài tử”, Tạp chí Bách Khoa, số 101
– 102: 69).
2. Luân Quốc Công Nguyễn Phúc Tứ (1698 – 1753).
7
Nguyễn Phúc Tứ là hoàng tử thứ 8 con của Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế
Nguyễn Phúc Chu, có tên là Đán. Năm 1715, ông làm Nội hữu Cai đội, thư tịch
ghi chép về ông như một người phong độ, tinh thông sử sách và đặc biệt sở
trường về thơ chữ Nôm. Khi Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng đế Nguyễn Phúc Khoát
lên ngôi chúa, Nguyễn Phúc Tứ vì có tài, bị nhiều người ghen ghét, gièm pha nên
xin từ quan về hưu dưỡng ở xã Hương Cần (Hương Trà – Thừa Thiên Huế), ngày
ngày chơi trăng thưởng gió, uống rượu ngâm thơ để mua vui. Sinh thời ông viết
Hoa Tình Truyện, lời lẽ rất thương tâm, thê thảm, được người đương thời truyền
tụng, ngợi ca (Quốc Sử quán triều Nguyễn (1997), Đại Nam Liệt truyện [tập I],
Huế, Nxb. Thuận Hóa: 52).
3. Nguyễn Phúc Dục (1727 – 1771).
Ông là con trưởng của Luân Quốc công Nguyễn Phúc Tứ. Đời Duệ Tông
Hiếu Định hoàng đế Nguyễn Phúc Thuần, ông được bổ nhiệm làm Chưởng Cơ
lãnh việc bộ Hình. Khi triều chính bị lũng đoạn, triều thần Trương Phúc Loan lôi
kéo ông làm vây canh nhưng bị từ chối, ông bị vu oan tội mưu phản, và bị bãi
chức. Từ đó, ông sống cuộc sống thanh đạm, và ông đặt chỗ ở của mình là Tĩnh
Viên Đường, để ngày ngày ngâm thơ. Là người hay thơ, am tường về âm nhạc
nên khi ông nhận thấy điệu Nam trong những bài ca Huế thường cao, đàn xưa
nhấn nhịp không đúng, ông đã dày công nghiên cứu đặc điểm của đàn Cầm, đàn
Sắt, Tỳ Bà rồi chế ra cây Nam cầm (đàn Nam)1
truyền, ông dạy cho vợ thứ của mình sử dụng cây đàn này, về sau, bà lại truyền
nghề lại cho một thiếu nữ sống ở vùng An Cựu (Thành phố Huế) tên là Đẩu
Nương. Đẩu Nương cùng Nam Cầm Khúc nổi danh một thời và để lại không ít
giai thoại, hiện còn lưu truyền trong giới mộ điệu.
Vào thời các vua Nguyễn, nhất là trong giai đoạn trước khi Thực dân Pháp
xâm lược, ca nhạc Huế đã được giới quý tộc thượng lưu đặc biệt ưa chuộng.
8
Những thành tựu có tính quyết định cho con đường phát triển của loại hình ca
nhạc Huế về sau, trong thời kỳ này phải kể đến sự đóng góp của một số hoàng
thân quốc thích, những người có sáng tác, tham gia diễn xướng hay tổ chức sinh
hoạt ca nhạc Huế trong hoàng cung hoặc ở ngay tại dinh phủ của mình: Miên
Tônng (vua Thiệu Trị), Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Tuy Lý Vương Miên
Trinh, Tương An Quận Vương Miên Bửu, Nam Sách Quận Công Miên Ổn, Công
chúa Ngọc Am, Mai Am, Thuận Lễ công chúa Tĩnh Hòa, Hồng Nhậm (vua Tự
Đức)…Song song là sự góp mặt của một số gia đình nghệ nhân có truyền thống
dân ca như: gia đình ông Tống Văn Đạt (cùng các thế hệ con, cháu là Tống Văn
Chín, Tống Văn Phước), các nghệ sĩ: Biện Nhân, Trần Quang Phổ, cậu Ba Toàn,
Đẩu Nương, cậu Thứ, cậu Khánh, cậu Trương Sáu, cậu Cung, ông Bá Yến,
Thông Ninh (Thông phán Châu Hữu Ninh), Bố chánh Trương Trọng Hữu, Tiến sĩ
Đỗ Huy Liên, cử nhân Lê Cảnh…
Có thể nói trong thời gian này, ca nhạc Huế dần phổ biến trong dân gian, với
sự có mặt đông đảo của các nghệ nhân nổi tiếng, đủ mọi giai tầng trong xã hội,
đây cũng là thời gian xuất hiện các công trình nghiên cứu về đàn, ca Huế như:
Nguyệt cầm phổ, Nam cầm phổ…
1. Dực Tông Anh Hoàng Đế Tự Đức – Hồng Nhậm (1829 – 1883).
Trong các triều vua Nguyễn, Tự Đức là ông vua giỏi văn thơ. Tuy nhiên, vào
thời kỳ này, xã hội Việt Nam có những biến chuyển đáng kể, sự đụng đầu giữa
hai phương thức sản xuất cũ và mới khi người Pháp đến Việt Nam đã đẩy ông
đứng trước những lựa chọn, những thách thức trọng đại, ông dành cả tâm huyết
cho văn thơ và ca nhạc. Ông đã để lại một khối lượng sáng tác đáng kể, đặc biệt
là trong lĩnh vực tuồng và ca Huế. Trong những sáng tác này, Tứ Đại Cảnh –
khúc nhạc hoành tráng, chan chứa những nỗi niềm ai lạc trong cùng một tác
phẩm, tương truyền do chính ông sáng tác (E.Le Bris (1927), Musique
9
Annamite: les musicien aveugles de Hué. Le Tu Dai Canh, Tạp chí B.A.V.H,
số 4: 137 – 149).
2. Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819 – 1870).
Vào giữa thế kỷ XIX, ở kinh đô Huế xuất hiện hai nhà thơ hoàng tộc rất
được khen ngợi:
“Văn như Siêu – Quát vô tiền Hán
Thi đáo Tùng – Tuy thất thịnh đường”
Tùng tức Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Tuy tức Tuy Lý Vương Miên
Trinh. Tùng Thiện Vương là hoàng tử thứ 10 của Thánh tổ Nhân hoàng đế Minh
Mạng và bà Thục tần Nguyễn Thị Bảo (1801 – 1851) nên cũng thường được gọi
là “ông Hoàng Mười”.
Tùng Thiện Vương nổi tiếng là người thông minh đĩnh ngộ, năm 4 tuổi ông
đã theo học Hiếu kinh, 7 tuổi được 2 vị đại quan đầu triều là Trương Đăng Quế
và Thân Văn Quyền dạy dỗ nên kiến thức rất uyên bác. Ông nổi tiếng về thơ văn
chữ Hán, tài văn của ông đã có lần khiến cho sứ giả Trung Quốc Lao Sùng Quan,
khi công cán đến Việt Nam đã phải kính phục nể vì. Trong số các anh em của
mình, cũng như trên thi đàn thời kỳ này, Miên Thẩm là người nổi tiếng nhất,
được người đương thời khâm phục gọi là “nhất đại thi ông”. Là một hoàng thân,
sống ở chốn cao sang quyền quý, nhưng thơ ca và tâm tưởng của ông dường như
vươn thoát ra khỏi khuôn phép của lễ giáo phong kiến, Miên Thẩm đã viết nhiều
bài thơ nói lên sự đau xót của mình trước thực trạng đất nước và nỗi thống khổ
lầm than của người dân:
“Mở đọc bài văn điếu từ chiến trường
10
Tựa hồ như tin ở biên giới dồn dập đưa về
Người dân cầm sào làm cờ, chặt gỗ làm gươm, tự ngàn xưa vẫn
anh hùng…”
Hay
“Dân đen bán nhà, bán đến vợ
Thân này tuy còn, nhà đã tan
Khỏi bị gông cùm thì mất vợ
Vợ bồng con đến từ biệt chồng
Miệng nhai cau trầu khóc nức nở…”
Tương truyền Nam Cầm Phổ là sách ông soạn ra để dạy cho nàng Tiều Bạch
3. Tuy Lý Vương Miên Trinh (1820 – 1897).
Tuy Lý Vương Miên Trinh sinh ngày 19 tháng chạp năm Gia Long XVIII
(1820), tự là Khôn Chương và Quý Trọng, hiệu Vĩ Dạ và Tĩnh Phố, là em của
Tùng Thiện Vương. Ông là hoàng tử thứ 11 của vua Minh Mạng và bà Tiệp Dư
họ Lê, măm 13 tuổi đã nổi tiếng hay thơ nên về sau thường được gọi là “ông
hoàng thơ”. Năm Minh Mạng XX (1839), ông được phong tước Tuy Quốc Công,
năm 1851 (Tự Đức IV) được cử trông coi Tôn Học Đường – trường học dành cho
con em trong hoàng tộc và được phong là Tuy Lý Công. Năm 1863, bà Tiệp Dư
mất, ông từ quan về nhà chịu tang. Hai năm sau, ông kiêm chức Hữu Tôn NHơn,
năm Tự Đức XIV (1871), được thăng chức Tả Tôn Nhơn, năm 1878 tấn phong
Quận Vương.
11
Năm 1883, Tuy Lý Quận Vương được Hiệp Hòa đế gia phong Tuy Lý
Vương đặc trách việc bang giao với sứ thần ngoại quốc. Bảy năm sau, khi vua
Thành Thái tức vị, ông được cử làm Đệ nhất Phụ chính Thân thần kiêm Nhiếp tả
Tôn chính, sau đó lại giữ chức Phụ nghị Cận thần cho đến khi mất.
Ngài Tuy Lý Vương để lại rất nhiều tác phẩm văn thơ chữ Hán và chữ Nôm
như Nữ Phạm Diễn Nghĩa Từ, Nghinh Tường Khúc, Hòa Lạc Ca (viết chung
cùng Tùng Thiện Vương và Tương An Quận Vương), đặc biệt, Nam Cầm Khúc
Diễn Nghĩa Ca được xem là nốt son trong lĩnh vực ca nhạc Huế.
4. Tương An Quận Vương Miên Bửu (1820 – 1854).
Miên Bửu tự Khiêm Trai, năm Thiệu Trị II, ông được phong làm Tương An
Công. Trong lĩnh vực ca nhạc Huế, Tương An Quận Vương Miên Bửu rất nổi
tiếng với ngón đàn tỳ bà, bên cạnh đó, ông cũng đặt lời cho rất nhiều bài ca Huế.
Ví như bài Nam ai:
“Trông nhau luống những xưa rày
Xưa rày đêm ngày chờ đợi
Mưa nắng cành lê, tuyết ủ gốc mai…”
Tương truyền bài Nam ai trên cùng Hương Giang Hoài Cổ Khúc được ông
sáng tác sau khi cuộc đảo chính của Hồng Bảo thất bại, Hồng Bảo bị vua Tự Đức
ám hại. Miên Bửu thương cảm nên mới viết chúng cùng với một loạt những bài
thơ khác, kín đáo phản ánh cuộc sống ngột ngạt của những con người tài hoa
dưới chế độ phong kiến.
“Thương chi thương khéo bông lông
Thương chi cảnh có người không thương gì…”
12
(Khúc ngậm trăng thương)
5. Nam Sách Quận Công Miên Ổn (1833 – 1894).
Là hoàng tử thứ 11 Thánh tổ Nhân hoàng đế, Miên Ổn sinh năm Minh Mạng
XIV, ông lấy tên là Các Trang Tử, hiệu là Thúc Ân.
Năm Tự Đức III, ông được phong Nam Sách Quận Công là người đàn giỏi,
lại dày công nghiên cứu về ca nhạc Huế, tập Nguyệt Cầm Phổ là kết quả nghiên
cứu của ông được viết vào năm 1859.
Trong công trình khảo cứu của mình, tác giả Hoàng Yến cũng đã nhắc nhở
đến tài năng về đàn của ông: “Trong Hoàng phái có Hoàng tử Nam Sách, không
chỉ giỏi về đàn tranh và đàn nguyệt, mà còn là người chơi đàn tỳ bà giỏi nhất
trong thời kỳ ấy. Ông học nhạc với Tống Văn Đạt. Trong phần mở đầu cuốn sách
nhạc của ông, ông có nói là ông mời ông Tống Văn đạt đến chơi nhạc ở nhà ông
và ông chỉ đạt được nghệ thuật này sau 5 năm học tập” (Hoàng Yến (1919), Đàn
nguyệt và đàn tranh, Tạp chí B.A.V.H, số 4: 108). Năm Thành Thái VII
(1895), ông Hoàng Nam Sách qua đời, thọ 63 tuổi, thuỵ là Cung Lượng.
6. Thuận Lễ Công Chúa Tĩnh Hòa (1830 – 1882).
Có tên Huệ Phố, tự Quý Khan và Diễm Chi, Tĩnh Hoà công chúa là con gái
thứ 34 của Thánh Tổ Nhân hoàng đế, em cùng mẹ của Tùng Thiện Vương và Mai
Am công chúa.
Sinh năm Minh Mạng X, Huệ Phố tỏ ra là người thông minh, đức độ, học
thông kinh sử và có tài làm thơ như các anh chị, Tập thơ Huệ Phố của bà đến
nay vẫn còn được lưu truyền.
13
Tĩnh Hòa công chúa rất thích âm nhạc, khéo đặt khúc hát và lập ra nhóm nữ
nhạc, ngày ngày cùng các anh chị hội yến, lấy đàn hát làm vui. Trong ban nữ
nhạc này, Huệ Phố là một nữ nhạc công xuất sắc, sở trường của bà là đánh trống
và thổi tiêu.
7. Lại Đức Công chúa Trinh Thận (1826 – 1904).
Lại Đức công chúa có thên hiệu là Mai Am, Diệu Liên, tự là Thúc Khánh Nữ
Chi, là con gái thứ 25 của vua Minh Mạng.
Năm 1849, sau khi Tuy Lý Vương xây dựng Sở Tiêu Viên bên bờ sông Lợi
Nông (Vĩ Dạ – Huế) và đưa mẹ ra ở, Lại Đức công chúa cùng các anh chị của
mình có cơ hội để bàn chuyện thơ văn, sáng tác ca từ, tiếp xúc với các danh sĩ đất
kinh sư trong Tùng Vân thi xã do Tùng Thiện Vương làm chủ soái. Cũng trong
thời gian này, bốn anh em của bà nổi danh là “Thi Tứ Đất Thần Kinh”.
Cùng với việc mô phỏng theo ca khúc Việt Quảng để làm ra mười bài ca mà
người Huế gọi là 10 bản Tàu, Lại Đức công chúa cũng phỏng theo điệu Nam bình
và đặt ra nhiều bài Hán văn như Thu lai mộng bất ly ngô đồng và bài Gối loan
trằn trọc năm canh (Ngô Thị Thuỷ (2000), Nghệ nhân Huế và Điệu Đàn – ca
xứ Huế, Luận văn tốt nghiệp khoá 1995 – 2000, Huế, Trường Đại học Nghệ
thuật: 91).
“Mối sầu đoanh
Lệ tình chan chứa, vì nợ ba sinh
Một khối tình, gớm ghê thay
Bao nhiêu sợi tơ mành
Vương càng thêm rối, rối, muôn vàn, khôn lần ra mối
14
Thiệt lạ cho đời!…”
Năm 1880, bà kết hôn cùng Thân Trọng Di, hậu duệ của một thế gia khoa
bản nổi tiếng ở đất kinh kỳ, 5 năm sau, trong sự biến kinh thành Huế, phò mã hộ
tống vua Hàm Nghi bôn tẩu ra Sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị), nhưng bị bạo
bệnh mất giữa rừng. Công chúa đau xót sai người tìm xác chồng nhưng không
được, bà làm tập thơ khóc chồng với ý nguyện khi chết sẽ được táng cùng chồng
trong cùng khu lăng mộ. Ý nguyện này đã được thực hiện vào năm Qúy Mão
(1903), khi ở làng Nguyệt Biều (Huế) xuất hiện khu mộ với ba ngôi trong một
vòng thành cùng với tấm bia khắc bài thơ của bà: một của công chúa Mai Am,
một là mộ trống dành cho chồng và ngôi mộ khác nhỏ hơn dành cho con trai của
bà mất lúc 5 tuổi.
8. Tống Văn Đạt
Gia đình ông Tống Văn Đạt ba đời truyền nối là nghệ nhân giỏi: ông Đạt
còn là đội Chín, cháu là đội Phước (chức đội trưởng đội Ngự nhạc triều Nguyễn),
và một số người tài khác như đội Thức, Thập tri.
Ông Tống Văn Đạt là một người có biệt tài về nhạc. Ông hoàng Nam Sách
đã có những nhận xét về tài năng của ông, trong lời tựa tập sách “Nguyệt cầm
phố” năm 1859 viết: “Đạt là một người đặc tài, anh chỉ xuất hiện ở những đại gia.
Người ta trọng tài anh với cung cách thật đặc biệt”.
Ông là học trò của Biện Nhân, một nghệ nhân đàn trứ danh thời bấy giờ,
được nhiều người truyền tụng và ghi vào sử sách. Tống Văn Đạt ở trong giai
đoạn phát triển và thịnh đạt cuả ca nhạc Huế. Ông đã truyền dạy nghề nghiệp
mình cho nhiều người, được sự ái mộ và kính nể của họ, đáng kể là các Vương
tôn công khanh cung triều Nguyễn Tài năng của ông đã có ảnh hưởng đến triều
9. Tống Văn Chín: con trai của ông Tống Văn Đạt, làm chánh suất đội
trưởng đội nhạc hoàng cung triều Nguyễn. Ông là người thừa kế tài năng của cha
15
một cách tường tận, nhất là các nhạc cụ bằng dây. Cũng nhờ tài năng này, vua Tự
Đức đã chọn ông làm đội trưởng được ghi nhận đầu tiên trong lịch sử âm nhạc
nước ta. Sau khi ông quan đời, con ông được kế tục sự nghiệp cùng chức vụ
người cha; vì nhà vua rất hâm mộ tài năng của ông.
10. Tống Văn Phước: Con trai của ông Tống Văn Chín (đội Chín), cháu
của Tống Văn Đạt, cả ba ông cháu đều giỏi về nhạc, kế tiếp làm chánh suất đội
trưởng đội nhạc cung đình triều Nguyễn, rất được vua Tự Đức ưa chuộng và đặc
biệt quan tâm do tài năng và đức độ của họ. Cậu Phước rất giỏỉ đàn dây nên sau
khi ông đội Chín mất, đội Phước đã được vua cho làm chánh suất đội kế chân
cha.
Ông còn là thầy tuồng trong Thanh Bình Thự là cha của Viên Lưu và cô ba
Thuội, cũng đều là diễn viên tuồng nổi tiếng. Đội Phước chuyên đóng vai kép
văn làm kép cũng giỏi. Đến khi bị hại, không đi được, nhưng vua Thành Thái
mến tài, truyền gia đình đưa ông đến, mời ông diễn tuồng ngay trên xe đẩy.
Gia đình ông Tống Văn Phước cho ta hình dung được lề lối học nhạc ngày
trước thường là “cha truyền con nối”.
2.2. Giai đoạn ngưng đọng và suy thoái (1885-1945):
Thời kỳ ngưng đọng và suy thoái của ca nhạc Huế là giai đoạn từ sau khi
thất thủ kinh đô cho đến trước cách mạng tháng 8 (1945)
Trong thời tao loạn, tối tăm, của chế độ nửa thực dân, nửa phong kiến thì
nghệ thuật tao nhã như ca Huế cũng mất dần tính chất sang trọng nơi tư dinh, phủ
đệ . Bởi vậy, thời gian này ca nhạc Huế có lúc đã bị biến chất, trở thành một thú
tiêu khiển không lành mạnh…
Ca Huế là một loại ca nhạc thính phòng, người ca, người đàn cùng thưởng
thức là những khách tri âm… Vì vậy, ngoài tư thất, phủ đệ thì dòng sông Hương
là nơi lý tưởng cho những lần tập họp khách tao nhân, tài năng thiên phú. Tất cả
tính chất ấy nay đã bị biến đổi cùng dòng sông ấy và những buổi ca Huế lúc bấy
16
giờ đã trỏ thành những cuộc an chơi trác táng của bọn người có đồng tiền. Bởi
vậy mà sông Hương trong giai đoạn này còn có tên là sông Tiêu Kim Thuỷ.
Các nhạc công, ca sĩ, lâm vào cuộc sống lầm than, bế tắc. Có người bán rẽ
tài năng, có khi bán cả nhân phẩm của mình để mua vui cho bọn quyền quý giàu
sang lại còn phải chịu nhục vì thành kiến “xướng ca vô loài”.
Ca nhạc Huế cũng như hát Ả đào, bị xuống dốc và bị coi rẻ. Trong hoàn
cảnh ấy, một số lớn những nhạc công ngay thẳng, lương thiện luôn giữ gìn vốn
cổ quý báu của cha ông. Họ đã nêu cao phẩm tiết chân chính của mình để bảo vệ
giá trị cho ca nhạc Huế!
Kể từ khi kinh đô thất thủ đánh dấu một giai đoạn biến chuyển trong mọi
sinh hoạt văn hoá nghệ thuật và cũng kể từ đây nhà nước phong kiến không được
quyền thống trị như trước. Vì không được triều đình nhà Nguyễn chăm lo, nâng
đỡ nên nhiều bộ môn nghệ thuật khác cũng bắt đầu có hiện tượng suy thoái, biến
chất. Và từ 1885 trở về sau, thật khó tìm ra những ông vua Nguyễn ham thích
nghe ca Huế, tổ chức các buổi ca Huế đặc sắc, lưu lại trong sử sách văn chương.
Từ một nghệ thuật trang nhã ở chốn cung đình, trở thành một sinh hoạt, mang
tính chất giải trí ở chốn dân gian.
Nhưng cũng do hoàn cảnh lịch sử, giai đoạn này cũng là một dấu ấn đậm
nét cho sự phát triển của Ca Huế: Đó là Ca Huế từ cung phủ đến với dân gian. Có
nhiều nghệ sĩ hoàng tộc với tâm hồn dân dã, dễ thích nghi với đời sống bình
thường nên họ rất dễ hoà hợp, đồng điệu với những nghệ sĩ dân gian. Họ là
những nghệ sĩ đàn ca Huế trung thực, đúng đắn đã có công giữ gìn vốn cổ cùng
bảo vệ bản sắc dân tộc trong hoàn cảnh hết sức khó khăn. Ta có thể kể tên các
nhạc sĩ, ca sĩ ấy, những người đã có công bảo vệ cho ca nhạc Huế trong giai đoạn
triều đình Huế mất thực quyền (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX).
Và trước những thay đổi phức tạp bên ngoài ấy, các nghệ sĩ, nghệ nhân nầy
vẫn sống với ca Huế càng tâm huyết hơn, họ là: Trợ quốc Khanh Ưng Dũng, gọi
là Trợ Dõng, con trai ông hoàng Gia Hưng, giỏi đàn nguyệt. Ông cựu Tri phủ
17
Đoàn Diệu (phủ Thông) giỏi tiết tấu, hoà điệu. Ông Kiểm thảo Trần Trịnh soạn,
thường họi là Cả Soạn, người làng Minh Hương đàn tranh thiện nghệ giỏi đàn
nguyệt. Ông Cửu phẩm Nguyên Chánh Tư, người gốc An Cựu (Huế) giỏi đàn
tranh. Ông Ưng Ân dòng dõi Tuy Lý Vương. Ông Khoá Hài tên thật là Ngô Phố
người làng Bác Vọng (Huế) ngụ ở An Cưụ, thuộc nhiều điệu, nhiều bài. Ông
huyện hầu Ưng Biều (mệ Chín Thành) giỏi tất cả các loại đàn dây, nhưng nổi
tiếng về đờn nhị và độc huyền. Ông Phan Đình Uyển gọi là câụ ấm Ba, người
Phú Lương (Thừa Thiên) giỏi đàn độc huyền và nổi tiếng về thổi tiêu.
Các nữ danh cầm gồm: cô Phò 24, vợ goá của Trần Quang Phổ, gốc người
An Cựu (Thừa Thiên); bà Khoẻ con cậy Cung (Người Kim Long) và vợ của Đốc
Soạn, họ là ngững người chơi giỏi đàn tranh, Danh ca thì có cô Phủ Sáu, Cô Tra.
Trước cách mạng tháng 8 khoảng 10 – 15 năm, có các danh cầm thường
được nhắc tới như:
– Ông Cả Soạn, ông Bảy Thiều, ông Thừa Khiêm, cậu Khoá Hài… nổi tiếng
về đàn tranh.
– Ông Ngũ Đại (tức Vĩnh Trân), cậu Tôn Út, nổi tiếng về đàn nguyệt
– Ông Hầu Biều (tức Ưng Biều) nổi tiếng về đàn bầu và đàn nhị.
– Ông Lý Vũ, ông Ưng Thông (Thân phụ của nhạc sĩ Bửu Lộc) nổi tiếng về
đàn nhị.
– Ông Đội Trác, Ông Ngũ Đại, ông Trợ Tồn, ông Sơn Huy Nguyễn Ngọc
Liệu nổi tiếng về đàn tỳ bà.
– Ông Nguyễn Khoa Tân, giỏi về đàn nguyệt, tranh
– Ông Chủ Văn (Tôn Thất Văn) giỏi về đàn tranh
– Ông Tôn Thất Đổng đàn bầu, đàn nhị
– Ông Vương Tứ Đại người Quy Nhơn lấy vợ hoàng tộc, biết chơi nhiều
nhạc cụ.
– Cô Nhơn, cô Thống Thắng, cô Tuyết Hương… nổi tiếng về ca
18
– Về sáng tác trong thời kỳ này có ông Ưng Bát là tác giả điệu “Tương Tư
khúc” ra đời và những năm 1930.
– Về nghiên cứu lý luận có những công trình của Di Sơ Ưng Dự như “Văn
thích lục” “Âm nhạc luân lược”; của tác giả Hoàng Yến như ”Âm nhạc ở Huế”,
“Cầm học tầm nguyên”. Trong giai đoạn này còn có:
– Ông Bảy Thiều (người Bình Định) chơi đàn tranh, có cách luyến láy rất
– Ông Đội Trác là một người có tài năng và nhạc cảm tốt, ông chơi đàn tỳ
bà và đàn nguyệt, Có một lần nghe các nhạc công người Hà Nội biểu diễn, ông đã
nhớ và đàn lại trọn vẹn bài nhạc mà người nhạc công vừa trình tấu.
– Ông Lý Vũ (sinh năm 1911), đã mất. Ông thường chơi đàn tri âm, ông
giỏi đàn nhị là thầy của ông Nguyễn Văn Tạ (đã mất)
– Ông Thầy Nậy (thường gọi là thầy bói): đàn bầu
– Bác Đồng (Đoàn Đồng là người giỏi tiếng Pháp – giáo sư giỏi ở Huế) là
một người thường nghe ca Huế và rất am hiểu về loại âm nhạc này.
Còn có các danh ca khác như: cô Điền, cô Thu Em, cô Yến…
Cụ Cả Soạn (tức là Trần Trịnh Soạn), xuất thân từ một gia đình khoa
bảng, Phụ thân của cụ Cả Soạn là cụ Trần Chỉ Tín đỗ cử nhân, giữ chức Thượng
Thư Bộ Lễ dưới triều Thành Thái, ở làng Minh Hương (Thừa Thiên).
Thuở niên thiếu, cụ Cả vốn người không được khoẻ mạnh nên gia đình
không cho đến trường mà được phụ thân dạy dỗ ở nhà. Với tư chất thông minh
lại đam mê, năng khiếu của cụ bộc lộ rất sớm trên cả 2 lĩnh vực: cờ và âm nhạc.
và là thầy thuốc giỏi, đã sáng chế một loại thuốc chữa mắt rất công hiệu
Cụ Cả cao cờ từ thuở thiếu thời. Đến tuổi lập thân cụ nổi tiếng là một danh
kỳ chốn kinh đô.
19
Là một danh cầm xứ Huế, cụ chơi nhiều loại đàn: đàn nguyệt, tranh, tỳ
bà…. đàn nào cụ chơi cũng tuyệt. Cụ đã đào tạo những học trò xuất sắc về cờ và
đàn, sau này họ đều trở thanh danh kỳ, danh cầm xứ huế.
Về đàn cụ đã dạy cho những người sau: Nguyễn Quang Tồn (Trợ Tồn) đàn
tỳ bà; Trần Ngọc Toản (nghè Toản) đàn tranh, đàn tỳ; Nguyễn Gia Cẩm đàn
nguyệt rất xuất sắc. Ba người này không những là học trò xuất sắc của cụ mà còn
là bạn tri âm của cụ Cả.
Nói về tiếng đàn của cụ, có một giai thoại như sau: “Cụ Cả thường chơi
đàn vào lúc đêm khuya, khi có hoa quỳnh nở, lúc trăng lên. Sau khi tắm rửa sạch
sẽ, cụ thắp nén hương, khoan thai ngồi vào bàn, trên một chiêc ghế tràng ký.
Tiếng đàn tránh thánh thót vang lên trong một đêm trăng yên tĩnh mịch. Đêm
càng về khuya, ánh trăng càng sáng, những đoá quỳnh rung rinh nở theo tiếng
đàn theo ánh trăng. Khung cảnh ấy đã được chứng kiến bởi một tên trộm định lẽn
vào nhà của cụ…. Sau đó ít lâu tên trộm đến gặp cụ và lễ pháp thưa rằng: cháu
thỉnh thoảng đi làm thuê, qua đây nghe tiếng đàn của cụ, xin cụ cho phép cháu
được vào hầu trà để được nghe tiếng đàn của cụ”
Ông Nguyễn Quang Tồn (thầy Trợ Tồn) cũng có một giai thoại nhiều bí
ẩn, thể hiện những tình cảm tri âm, tri kỹ với cụ Cả Soạn:
“Thầy Trợ Tồn, người học trò yêu của cụ cũng là một danh cầm xứ Huế,
thường hay đến hoà đàn với cụ. Với phong cách chơi đàn vào giờ ấy, bên cạnh
những bình hoa huệ toả hương ngào ngạt. Có một lần, đêm đã khuya lắm. Sau khi
đàn bài Nam ai xong, thầy đi ngủ. Nửa đêm thức giấc tỉnh dậy, thầy gọi vợ và nói
“Này mình! Bác Cả đến gọi tôi đi với Bác”. Vợ thầy hốt hoảng nói nhẹ “Thầy
ngủ đi, mộng mị gì lạ vậy!”. Thầy Trợ Tồn gật đầu, nằm lại ngay ngắn và ngủ
tiếp và từ giây phút đó, thầy Tốn vĩnh viễn từ giã cõi đời mà trong giấc mộng
thấy cụ Cả về rủ thầy đi.
Việc ra đi đột ngột của thầy Trợ Tồn sau khi đàn xong là có thật. Còn
nguyên nhân cái chết đột ngột ấy thì có người cho là do quá xúc động khi đàn
20
trong một phòng đóng kín, ngào ngạt hương hoa nên bị tai biến. Nhưng cũng có
người cho đó là một cái chết tâm linh, ra đi theo tiếng gọi của người thầy, người
bạn tri âm…
Ông Ưng Biều (là bạn thân của cụ Cả Soạn): Phong cách đàn không giống
cụ cả Soạn. Ông cũng là người Huế.
Ông còn được gọi là Huyện hầu Ưng biều hay “mệ” chính Thành (vì ông là
con thứ 9 lúc ở nhà tên Thành). Ông giỏi tất cả những loại đàn dây, nhưng nổi
tiếng hơn cả là đàn nhị và đàn bầu. Nhờ giỏi nhấn nhá, luyến láy, ông biểu lộ cảm
xxúc của mình rất trung thực, làm người nghe hết sức xúc động, buồn thương.
Ông là danh cầm bậc thầy của nhiều người sau này như: Giáo sư, nghệ sĩ ưu tú
Nguyễn Hữu Ba. Được học đàn với thầy Biều là một vinh hạnh may mắn. Ông
cũng thường đàn một mình giữa khuya để tiếng đàn thêm phần sinh động và có
hồn. Ông thường hoà đàn với các danh cầm khác như Hoàng Yến (đàn tỳ) cụ Cả
Soạn (đàn tranh).
Ông Ưng Dũng (còn gọi là Trợ Dũng): chức vụ của Ưng Dũng là Trợ quốc
khanh. Cha của ông là ông hoàng Gia Hưng là người giỏi đàn nguyệt. Nhạc của
ông chơi rất trang nghiêm và cao khiết. Những buổi hoà nhạc của ông luôn luôn
tạo cho người nghe cảm xúc như đang ở trong một cung điện nghiêm trang, đầy
vẻ tĩnh lặng và sùng kính.,
Ông Nguyễn Ngọc Liệu có hiệu là Sơn Huy, tuy không phải là người gốc
Huế, nhưng ông rất thích thú và say mê đàn Huế. Sinh tại Điện Bàn, Quảng Nam.
Ông sử dụng thành thạo ba cây đàn: tranh, tỳ bà và nguyệt, với những tiếng nhấn
nhá điêu luyện, với cách khéo léo sửa đổi một vài bài tiết tấu. Tiếng đàn của ông
đầy sinh lực và tươi trẻ. Nhờ biết đàn tỳ bà, ông thêm bớt nhiều nét rất duyên
dáng vào bài đàn nguyệt, nghe ông đàn người nghe có cảm tưởng trong tiếng đàn
có tiếng ca. Ông cũng chơi đàn đồng thời với ông Cả Soạn, Đội Trác, Bảy
Thiều…
21
Ông Nguyễn Chánh Tâm (còn gọi là Cửu Tâm) ông gốc người Thừa
Thiên – Huế nhưng cư ngụ Quảng Trị. Ông là học trò của thầy đội Tống Văn
Phước và Trợ quốc khanh Ưng Dũng, giỏi chơi đàn tranh và đàn nguyệt.
Ông Phan Đình Uyển (thường được gọi là cậu Ấm Ba) ông là người Phú
Lương, Thừa Thiên Huế, ông chơi giỏi đàn bầu, thổi tiêu hay có tiếng về sáo và
tiêu. Ông là người giữ được các điệu nhạc cổ chính thông cũng như Ưng Biều,
Nguyễn Khoa Tân, Trần Trịnh Soạn. Chứ không biến đổi nhạc điệu theo thời
thượng của một số người yêu nhạc Huế tân thời.
Ông Nguyễn Khoa Tân (1870 – 1938) Ở làng An Cựu – Huế Ông lãnh
chức Tuần Phủ Hà Tĩnh là danh cầm về đàn tranh và giữ được những điệu nhạc
chính thống đương thời. Ông là con thứ 4 của cụ Nguyễn Khoa Luận, hiệu là
Bình Nam. Chức tước: Hiệp Biên Lãnh Hội Bộ Thượng Thư, sung cơ mật viện
đại thần tăng động các điện Đại học sĩ. Ông thọ được 68 tuổi (mất vào thánh 12
năm 1938).
Ông Hoàng Yến: Ông sinh khoảng vào những năm cuối thế kỷ XIX, ông
là một tiến sĩ Hán học xưa, làm Ngự tiền văn phòng cho vua Bảo Đại.
Ông là người tiên phong trong sự nghiệp nghiên cứu âm nhạc cổ truyền.
Ông không những chơi nhạc cổ, theo ông thì các điệu ngày xưa tấu lên êm dịu,
trang trọng, trong khi âm điệu ngày nay được trình tấu với những uốn éo thô tục,
tầm thường, không thoả đáng, mang tính phóng đãng… Ông lo sợ âm nhạc nước
ta thoái hoá như thời nước Trịnh, Vệ, và tập tục cũng suy đồi theo, nên đã bỏ
công sưu tầm, ngjhiêm cứu và biên tập các tác phẩm âm nhạc, đó cũng là một
đóng góp đáng quý, khẳng định một giai đoạn của môn nghệ thuật này (suy đồi
hay phát triển)
Những tác phẩm của ông như: “Cầm học tầm nguyên” “ Âm nhạc Huế –
đờn nguyệt, đờn tranh”… rất đáng trân trọng cho thế hệ sau hiểu biết về âm nhạc
nước nhà. Ông thường chơi đàn tỳ và thường hoà đàn với ông Hầu Biểu, Cả
22
Soạn. Ông vừa là một danh cầm, vừa là một người hiếm hoi nghiên cứu về đàn ta
và để lại những tác phẩm quý trong thời đại của ông.
2.3. Giai đoạn tái sinh và phục hưng.
Năm 1954 (sau chiến dịch Điện Biên Phủ) Ca Huế lại có cơ hội để phục
hồi.
Ở vùng bị tạm chiếm nhiều nhạc công và ca sĩ yêu nước đã có những cố
gắng để bảo vệ ca Huế, họ tiếp nối truyền thống yêu dân tộc, bảo vệ những di sản
quý báu của cha ông.
Hành động này nhằm chống lại ảnh hưởng lai căng đồ trụy, chống lại âm
mưu thủ đoạn, lợi dụng mua chuộc, tha hóa nhằm biến ca Huế thành một thú tiêu
khiển trụy lạc hay một công cụ chiến tranh tâm lý. Và để minh chứng cho việc
bảo vệ cho ca Huế. Họ gồm có: nhạc sĩ Bửu Lộc lập ban “Hương Bình”, nhạc sĩ
Nguyễn Hữu Ba lập viện “Tỳ Bà” ở Huế và Sài Gòn, các nghệ nhân Tôn Thất
Toàn, Viễn Dung lập “Hội Ái Hữu” cổ nhạc Miền Trung. Tục lệ tế tổ ngành ca
nhạc Huế được duy trì tại từ đường cổ nhạc ở huế từ năm 1971 (trước kia thì vào
ngày 16 tháng 10, do thời tiết giá lạnh nên mấy năm trở lại đây tổ chức vào ngày
16 tháng 3 Âm Lịch).
Ở Miền Bắc, nhiều nghệ nhân trước đây là những diễn viên nhạc công ở
các gánh hát ca Huế. Năm 1945 (sau khi hòa bình lập lại) họ tập kết ra Bắc. Họ
bán tài sản riêng của mình để chiêu mộ lực lượng, thành lập ra đoàn ca kịch Huế .
Vào hoạt động biểu diễn nghệ thuật phục vụ tại tuyến lửa Vĩnh Linh. Với phương
châm: Bảo vệ và phát huy vốn nghệ thuật truyền thống của dân tộc, mà ca Huế là
loại hình nghệ thuật độc đáo, là sản phẩm tinh thần của nhân dân tỉnh Thừa Thiên
Huế. Rất nhiều nghệ sĩ ca Huế đã trưởng thành trong thời kỳ này.
Đến năm 1975, đất nước thống nhất, đoàn đã trở về quê hương trở thành
đoàn ca kịch Bình Trị Thiên, đến năm 1986 chia tỉnh, đoàn có tên gọi là đoàn ca
kịch Huế.
23
Từ năm 1993, các diễn viên chủ yếu đi diễn rời rạc để phục vụ du khách
nghe Ca Huế trên sông. Cũng có nhiều ý kiến cho rằng nghe ca Huế như thế nhộn
nhạo quá, không còn thanh thản, yên tỉnh của tiếng hò sông nước và giai điệu của
những bài ca cũng ít nhiều bị phát đi tiết tấu xưa. Đó là một vấn đề của hoạt động
ca Huế thời hiện đại.
Giai đoạn này, các nhân vật nổi tiếng có thể kể đến như:
– Ưng Quả viết tập nghiên cứu về ca Huế (nhưng thất lạc năm 1947).
– Ưng Bình Thúc Giạ Thị sáng tác các bài ca Huế, đăng trong tập “Bán
buôn mua vui”.
– Vu Hương, Hiều Khê, Thanh Tùng sáng tác các bài ca Huế trong tập cố
đô Huế.
Còn có những người có tài sáng tác ca Huế như cụ Hà Viên, Kính Chỉ, Hỷ
Thần, Lương Khánh, Nhược Thủy, Diên Chi, Hòe Đình, Quật Đình.
– Về danh cầm phải kể: Ông Đội Song, Cậu Tôn Đổng, Cậu Tôn Lục, Ông
Mộng Tiên, Ông Vân Hán, Ông Bửu Huấn, Ông Văn Tạ, Ông Tôn Thất Toàn,
Ông Mông Trân, Ông Bửu Lôc, Ông Nguyễn Hữu Ba, Ông Vĩnh Phan, Ông Trần
Kích, Ông Nguyễn Kế, Ngoài ra, cụ Tôn Thất Toàn còn cho biết thêm một số
danh cầm cùng thời với cụ là: Nguyễn Gia Cầm, Lê Hữu Dậu, Dương Văn Lẫm,
Nguyẽn Văn Tân (đàn Nhị), Bác khai Tôn Thất Thể. Thanh Tùng ( Nguyễn Gia
Tuân), ông Tịch (Tỳ Bà), Tôn Thất Hường (con ông chủ Văn – đàn Trạnh), Hồ
Đăng Thi em ruột ông Hồ Đăng Đại (Đàn nguyệt, đàn Tỳ Bà), Ông Cao Hữu On,
Ông Thăng, Ông Cháu Mù (người Đà Nẵng, đàn Nhị), Ông Mại (chồng cô Bích
Vân), Ông Hai Kỳ (đàn Bầu), Ông Khai Ca, Ông Viễn Dũng (đàn Nguyệt).
Cụ Tôn Thất Toàn còn cho biết thêm danh sách của những người ca Huế
như sau: Cô Thu Tâm (ca xuất sắc), Cô Thu Nhơn (độc quyền về đĩa Béka – tròng
vàng), Cô Thái (độc quyền cho đĩa Pate – tròng đỏ), Trần Thị thu, Cô Điền, Cô
Yến, Cô Thu Nương (ở Vĩ Dạ – là em ruột của Thuyền Nương), cô Quế Trân (vợ
ông Viễn Dung), Cô Vân Phi (ở Bao Vinh), Cô Minh Mẫn (vợ ông Cao Hữu On),
24
Cô Thanh Xuân (vợ ông Tôn Thất Thể), Cô Ba Cúc, Cô Thanh Yên (vợ ông
Huyện Hoan), cô Nghè Miên (chủ yếu bên tuồng), Cô Xuân (vợ của ông nhà báo
Phạm Bá Uyên, bút danh Ấm Bể), cô Diêu Cầm (vợ ông Tư Nghĩa), Cô Diệp (em
cô Châu Loan), Cô Chanh (vợ ông Ký thợ may), Cô Năm (vợ ông Hàn Tôn người
Tàu), cô Lịu (vợ ông Tạ), Cô Thanh Tâm (Vàng em), Cô Thu Đôi (người rất đẹp,
vợ ông Hồ Đăng Thi), cô Trúc Anh (vợ Nguyễn Thanh Sằng – chuẩn trưởng), cô
Tuyết (con ông Đội Thê), Cô Lê (vợ ông Lợi), cô Mai (em cô Lê), Cô Bích Vân
(tức cô Lài).
Một số nghệ sĩ tiêu biểu:
Bửu Bát
Bửu Bát hay còn được gọi là Trợ Bát, là nhạc phụ của nhà soạn nhạc Tôn
Thất Tiết (cháu nội của Phụ chính Đại thần Tôn Thất Hân), ông rất am hiểu về ca
Huế và sáng tác nhiều bài ngũ đối, đặc biệt là Tương tư khúc của ông đã góp
phần làm giàu thêm cho thể loại âm nhạc này.
Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877 – 1961).
Ưng Bình Thúc Giạ Thị sinh ngày 9.3.1877, mất ngày 4.4.1961, là cháu nội
của Tuy Lý Vương, con trai của Hiệp Tá Tiểu Thảo Hường Thiết (tác giả của
Việt Sử Diễn Nghĩa Tứ Tự Ca – lịch sử Việt Nam kể từ thời Hồng Bàng, tập thơ
chữ Hán Liên Nghiệp Hiên Thi Tập, Đại Nam Lịch Đại Long Phi Đồ…Năm
1904, ông đỗ đầu kỳ thi ký lục, năm 1909 đổ cử nhân Hán học, sau đó được bổ
làm tri huyện – tri phủ rồi Bố Chánh Hà Tĩnh (1922), năm 1933, ông về hưu và
được thăng làm Thượng thư, Hiệp tá Đại học sĩ, Viện trưởng Viện Dân biểu
Trung kỳ (1940 – 1945), đồng thời, trong thời kỳ này ông cũng là chủ soái của
Hương Bình thi xã – một hội Tao Đàn tụ hợp của những nhà thơ trẻ đương thời
(Hoàng Phủ Ngọc Tường (2001), Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Tạp chí Sông
Hương, số 114: 78 – 81).
25
Cô Thanh Xuân (vợ ông Tôn Thất Thể), Cô Ba Cúc, Cô Thanh Yên (vợ ông
Huyện Hoan), cô Nghè Miên (chủ yếu bên tuồng), Cô Xuân (vợ của ông nhà báo
Phạm Bá Uyên, bút danh Ấm Bể), cô Diêu Cầm (vợ ông Tư Nghĩa), Cô Diệp (em
cô Châu Loan), Cô Chanh (vợ ông Ký thợ may), Cô Năm (vợ ông Hàn Tôn người
Tàu), cô Lịu (vợ ông Tạ), Cô Thanh Tâm (Vàng em), Cô Thu Đôi (người rất đẹp,
vợ ông Hồ Đăng Thi), cô Trúc Anh (vợ Nguyễn Thanh Sằng – chuẩn trưởng), cô
Tuyết (con ông Đội Thê), Cô Lê (vợ ông Lợi), cô Mai (em cô Lê), Cô Bích Vân
(tức cô Lài).
Một số nghệ sĩ tiêu biểu:
Bửu Bát
Bửu Bát hay còn được gọi là Trợ Bát, là nhạc phụ của nhà soạn nhạc Tôn
Thất Tiết (cháu nội của Phụ chính Đại thần Tôn Thất Hân), ông rất am hiểu về ca
Huế và sáng tác nhiều bài ngũ đối, đặc biệt là Tương tư khúc của ông đã góp
phần làm giàu thêm cho thể loại âm nhạc này.
Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877 – 1961).
Ưng Bình Thúc Giạ Thị sinh ngày 9.3.1877, mất ngày 4.4.1961, là cháu nội
của Tuy Lý Vương, con trai của Hiệp Tá Tiểu Thảo Hường Thiết (tác giả của
Việt Sử Diễn Nghĩa Tứ Tự Ca – lịch sử Việt Nam kể từ thời Hồng Bàng, tập thơ
chữ Hán Liên Nghiệp Hiên Thi Tập, Đại Nam Lịch Đại Long Phi Đồ…Năm
1904, ông đỗ đầu kỳ thi ký lục, năm 1909 đổ cử nhân Hán học, sau đó được bổ
làm tri huyện – tri phủ rồi Bố Chánh Hà Tĩnh (1922), năm 1933, ông về hưu và
được thăng làm Thượng thư, Hiệp tá Đại học sĩ, Viện trưởng Viện Dân biểu
Trung kỳ (1940 – 1945), đồng thời, trong thời kỳ này ông cũng là chủ soái của
Hương Bình thi xã – một hội Tao Đàn tụ hợp của những nhà thơ trẻ đương thời
(Hoàng Phủ Ngọc Tường (2001), Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Tạp chí Sông
Hương, số 114: 78 – 81).
25
Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã xuất bản nhiều tập thơ Tình Thúc Giạ (1942),
Đời Thúc Giạ (1961), Bán buồn mua vui (1954), Tiếng hát sông Hương
(1972), đặc biệt là vở tuồng Lộ Địch (cốt truyện dựa theo tác phẩm Le Cid của
nhà văn Pháp P. Corneill)… Cụ Thúc Giạ cũng là tác giả của rất nhiều điệu hò,
bài ca Huế đã đi vào dân gian:
“Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non”
Hay:
“Một vũng nước trong, mười dòng nước đục
Một trăm người tục, một chúc người thanh
Biết đâu gan ruột gởi mình
Mua tơ thêu lấy tượng Bình Nguyên Quân…”
Một nhà giáo nổi tiếng đương thời – Phan Thế Roanh đã viết về cụ: “Cụ Ưng
Bình đã làm cho phong trào thi ca Huế ngày càng thêm thịnh”; hay như Mộng
Tuyết Thất Tiểu Muội đã nhắc đến Ưng Bình như là “cái phong vận tài hoa của
đất cố đô văn vật”.
Cùng với những gương mặt có thể xem là kiệt xuất như trên, trong hoàng tộc
Nguyễn cũng có không ít các vị hoàng tử, công chúa giỏi về một vài thể loại nhạc
26
cụ như Hoàng Tử Mỹ Hòa giỏi thổi tiêu; Hoàng Tử Tuy An giỏi chơi Tỳ bà;
Công tử Tịnh Kỳ con của Định Viễn Quận Công, vị Thông phán Tôn Thất Toại
thành thạo Tỳ bà và đàn tranh; Quan thị Tôn Thất Linh, Hậu Chí giỏi bài Cổ Bốn
và tài nghệ của họ được truyền tụng trong dân gian với câu: “Đờn thì Hậu Chí,
Hát thì Hiệu Giồ”…
Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba (1914 – 1997).
Sinh năm 1914 tại làng Đạo Đầu, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong tỉnh
Quảng Trị, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba xuất thân trong một gia đình nhà nông lam
lũ. Năm 6 tuổi, ông được truyền dạy những ngón nghề của độc huyền cầm và chỉ
3 năm sau, ông đã thành thạo tiếng đàn, câu hát cùng với các ban nhạc lưu diễn
nhiều nơi.
Sự nghiệp của nhạc sĩ bắt đầu từ rất sớm, năm lên 9, ông đã là thầy dạy của
nhiều học trò ở Quảng Trị, năm 11 tuổi ông cùng chị là Nguyễn Thị Dung (tức
danh ca Ngọc Lan) vào Huế biểu diễn và được sự ủng hộ của đông đảo công
chúng. Tại kinh đô Huế, ông đã được học đàn với nhiều tên tuổi lớn như: Cả
Soạn, Ưng Biền… Năm 16 tuổi (1930), ông cùng một số danh cầm, danh ca ở
Huế như cậu Tôn Út, cô Dung Ngọc Lan, cô Nhơn…được lựa chọn để thu thanh
cho hãng đĩa Béka (Đức), đây là đĩa hát sớm nhất về điệu đàn, giọng ca Việt Nam
được thu và phổ biến ở Tây Âu trong nửa đầu thế kỷ XX.
Năm 1932, trước sự xâm nhập của những trào lưu âm nhạc phương Tây, ông
nghĩ đến vấn đề cải biên âm nhạc dân tộc để phổ cập với quảng đại quần chúng.
Sau một thời gian nghiên cứu, so sánh, ông là người đầu tiên dùng ký âm pháp
Tây Phương để thay thế cách ghi nhạc cổ truyền căn cứ trên thang âm ngũ cung.
Trong thời gian này, một số tác phẩm của ông được xuất bản: Phương pháp và
bài bản các nhạc cụ Việt Nam, Sưu tầm nghiên cứu tư liệu, thư tịch âm nhạc Việt
Nam, Nhạc pháp quốc nhạc Việt Nam và Dân ca Việt Nam. Đồng thời ông cũng
27
cải tiến chất lượng, hình thức nhạc cụ theo nguyên tắc của mình với các loại đàn
như: đàn bầu, đàn nhị, nguyệt, tranh…
Với nghệ thuật biểu diễn cây đàn nhị điêu luyện, năm 1937, ông đã đạt giải
thưởng ưu hạng tại hội chợ Huế. Năm 1940, ông xuất bản cuốn tự học đàn nguyệt
và sáng tác bài hát quãng đường mai. Về sau còn có thêm Vài thiển kiến về âm
nhạc Việt Nam (1950), bài đàn tranh (1951), bài ca Huế (1956), giới thiệu sơ
lược về âm nhạc Việt Nam (1956), nhạc Pháp quốc, nhạc Việt Nam (1961), bài
đàn nguyệt, bài đàn tỳ bà, bài đàn độc huyền, bài đàn nhị huyền (1962), ca nhạc
miền Trung (1962), dân ca Việt Nam (1970).
Năm 1940 – 1941, ông được tặng huân chương của Hàn Lâm viện và Đại
Nam Long Bội Tinh. 4 năm sau, ông tham gia cách mạng và công tác tại Đoàn
Văn hóa Xây dựng thuộc Thành Ủy Huế. Trong thời gian tham gia kháng chiến,
ông sáng tác nhiều bản anh hùng ca: Thanh niên đồng tiến, Ánh dương trời Nam;
Tiếng hát quân Nam. Năm 1946, ông thành lập Quán Nghệ sĩ tại Huế.
Năm 1948, ông làm uỷ viên UNESCO, đến năm 1949, ông xây dựng Tỳ Bà
Trang (sau đổi Tỳ Bà Viện). Ở đây, ông đã sưu tập nhiều nhạc cụ dân tộc truyền
thống rất có giá trị như đàn tranh của ông hoàng Nam Sách, cây tỳ bà của Tương
An Quận Vương, cây đàn nguyệt của cụ Cả Soạn…cùng với nhiều bản ca, nhạc
Huế viết bằng chữ Hán, Nôm đầu thế kỷ như Nguyệt cầm phố của Tùng Thiện
Vương.
Năm 1953, ông làm Giám học trường Quốc gia Âm nhạc Kịch nghệ Sài
Gòn, ông đã cải tiến và đưa âm thanh điện tử vào nhạc cụ Việt Nam (1957). Năm
1960, ông sang Pháp làm đại diện cho mặt trận Giải phóng Dân tộc miền Nam
Việt Nam và đảm nhận nhiệm vụ vận động trí thức Việt Kiều.
28
Năm 1964, được sự giúp đỡ của giáo sư Trần Văn Khê, ông thực hiện đĩa
hát Việt Nam I và Việt Nam II. Từ năm 1968 – 1972, ông làm Giám đốc trường
Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ Huế. Năm 1970 ông cùng đoàn Văn Nghệ cổ
truyền Việt Nam tham dự hội chợ OSAKA Nhật Bản và đã được tặng Bội tinh
Văn hóa.
Sau năm 1975, ông công tác tại Viện Âm nhạc Tp. Hồ Chí Minh. Năm 1976,
làm phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc và phó Chủ tịch Hội Âm nhạc Thành phố Hồ
Chí Minh. Năm 1984, ông được Nhà nước trao tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú
ngành ca Huế.
Nhạc sĩ Bửu Lộc (1911 – 1986).
Nhạc sĩ Bửu Lộc người làng An Cựu, ông bắt đầu học đàn từ năm 15 tuổi,
sử dụng thành thạo cả tứ cầm cổ truyền: tranh, tỳ, nhị, nguyệt. Nhưng với cây đàn
tranh, ông đã đem đến cho người mộ điệu sự rung cảm trọn vẹn, đặc biệt là trong
hoà âm, phối khí với những danh cầm khác trong ban nhạc Hương Bình.
Bửu Lộc không chỉ nổi tiếng về danh cầm mà ông còn là một nhạc sĩ trứ
danh, các ca khúc bất hủ của ông vẫn còn trên sàn diễn như Ai phong lưu người
điêu (sáng tác theo điệu cổ bản) và tiếng Hương bình (điệu tứ đại cảnh). Từ
những năm 1957 – 1963, ông được mời giảng dạy và là giám khảo trong các kỳ
thi tốt nghiệp môn đàn tranh, nguyệt tại trường Quốc gia Âm nhạc Thành phố Hồ
Chí Minh, đồng thời là trưởng ban ca Huế Hương Bình. Năm 1946, ông đoạt giải
nhất đàn tranh ở cuộc thi nhạc cụ dân tộc tại Hà Nội.
Nhạc sĩ Vĩnh Phan
Sinh năm 1917 tại Huế, nhạc sĩ Vĩnh Phan là cha của Bảo Chấn, Bảo Phúc.
So với các nhạc sĩ khác cùng thời, ông đến với ca nhạc Huế khá muộn (năm 25
29
tuổi) nhưng ông lại sử dụng được nhiều loại nhạc cụ, đặc biệt sở trường là đàn
tranh và đàn tỳ bà.
Ông vừa là giảng viên trường Quốc gia Âm nhạc, vừa là thành viên của ban
nhạc Hương Bình.
Danh cầm Tôn Thất Thể
Con của cụ Tôn Đổng, cũng là một danh cầm, nhưng ngoài tứ cầm cổ truyền
như tranh, tỳ, nhị, nguyệt, ông còn chơi thạo cả đàn Violon.
Nghệ nhân Cao Hữu On
Cao Hữu On là người có biệt tài về ca nhạc Huế, ban đầu ông chơi đàn nhị,
về sau nhờ khổ công luyện tập ông chơi được tất cả các loại đàn dùng trong ca
nhạc Huế: tranh, bầu, nguyệt, tỳ bà và cả đàn hồ (đàn hồ còn được gọi là hồ cầm,
nay đã bị thất truyền, nhưng theo hồi ức của một số nghệ nhân thì loại đàn này rất
khó sử dụng).
Nghệ nhân Cao Hữu On không chỉ giỏi chơi đàn mà còn là người giỏi đánh
trống chiến cho Ban nhạc cung đình Huế. Ông chủ trì bộ môn nhạc lễ tại trường
Quốc gia Âm nhạc, và ông cùng với vợ là danh ca Minh Mẫn đã chiếm một vị trí
không nhỏ trong lòng người yêu ca Huế hiện nay.
Nghệ nhân Nguyễn Khai
Ông là người làng Mậu Tài, chơi giỏi đàn tỳ bà và đàn nguyệt, nhưng điểm
đặc biệt dễ nhận thấy ở nghệ nhân này là chơi đàn bằng tay trái, và ông thường
vừa ca vừa đàn.
Ông là người đầu tiên đưa bộ chén vào làm nhạc cụ đệm cho dàn ca Huế.
30
Tôn Thất Viễn Dung
Ông là người làng An Truyền – huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế, ông
thường chơi đàn nguyệt. Cùng với nhóm bạn tri âm của mình Tôn Thất Toàn,
Trần Kích Giám Cơ, Nguyễn Ngọc Cọng…, ông là một trong tám người đầu tiên
đứng ra thành lập Hội Ái Hữu cổ nhạc Trung phần (năm 1962)
Thanh Tùng (Nguyễn Gia Tuân)
Thanh Tùng Nguyễn Gia Tuân sinh năm 1914 ở Huế, ông vừa là học trò
trường Quốc tử giám, lúc trưởng thành làm trưởng ty thuế vụ Thừa Thiên Huế.
Thanh Tùng rất đam mê ca nhạc Huế, sử dụng thành thạo đàn nguyệt, đàn tranh.
Ngoài tác phẩm Cố đô Huế ca và hò viết chung với Vu Hương, Kiều Khê, ông
còn đặt lời chơ hơn 60 bản ca Huế.
Lê Thị Mùi (cô Nhơn)
Lê Thị Mùi được gọi là cô Nhơn, sinh năm 1907 tại Nại Cửu Phường (Triệu
Phong, tỉnh Quảng Trị), là người có chất giọng thiên phú, đặc biệt là khi thể hiện
các bài bản Nam ai, Nam bình…
Bà đoạt giải nhất cuộc thi ca Huế tại hội chợ Huế năm 1937, được bình chọn
là ca sĩ tiêu biểu trong giai đoạn (1925 – 1945). Cô Nhơn là người duy nhất được
chọn ghi âm cho hãng đĩa Béka cùng với tiếng đàn của cậu Tôn Út và Nguyễn
Hữu Ba.
Cô Thông Thắng
Cô Thông Thắng là ca sĩ tài danh xứ Huế, người làng Dưỡng Mong và được
gọi theo tên chồng. Cô hát thành công trong những bài bản lớn như Tứ đại cảnh,
Nam ai, Nam xuân, Cổ bản, Phú lục…
31
Cô Tuyết Hương
Danh ca Tuyết Hương cùng thời với Thông Thắng, là người sáng lập viên
của ban nhạc Hương Bình – nơi hội tụ của những danh ca, danh cầm gốc Huế tại
Sài Gòn gồm: nhạc sĩ Bửu Lộc, Gia Cẩm, Bích Liễu, Vĩnh Phan, Thu Tâm, Trịnh
Chất, Ngũ Đại…. Ngoài giọng ca trác tuyệt, cô còn là một nghệ sĩ đàn tài hoa và
là gương mặt không thể thiếu trong những buổi sinh hoạt ca Huế trong gia đình
cụ Ưng Bình Thúc Giạ.
Nghệ sĩ Nguyễn Thị Châu Loan
Sinh năm 1926 tại thôn Phước Mỹ, xã Vĩnh Giang huyện Vĩnh Linh tỉnh
Quảng Trị, ca sĩ Châu Loan xuất thân trong một gia đình có truyền thống đàn ca.
Cha cô là một danh cầm, thông thạo cả tứ cầm: tranh, tỳ, nhị, nguyệt nên Châu
Loan được cha truyền dạy từ rất sớm, về sau, khi gia đình chuyển vào sống ở
Huế, cô có cơ hội được thụ giáo với nhiều nghệ sĩ nổi danh như cậu Nghè Toản,
Ngũ Đại (con của vua Thành Thái – một bậc thầy về đàn nguyệt và ca Huế) và
được mời biểu diễn ở nhiều thế gia.
Năm 1954 – 1963, Châu Loan là giọng ca trụ cột cho chương trình ca Huế
của đài tiếng nói Việt Nam, tháng 10/1955 cô tham gia Đại hội Thanh niên sinh
viên tại Ba Lan và thường biểu diễn ở nhiều nơi. Năm 1962, là thành viên Ban
chấp hành Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội.
Nghệ sĩ Hồng Lê
Cùng thời với Châu Loan, nghệ sĩ Hồng Lê quê ở An Cựu. Lúc 8 tuổi, Hồng
Lê bắt đầu sự nghiệp của mình bằng cách giúp việc cho bà chủ gánh hát Kim
Sanh (gánh hát chuyên sử dụng các làn điệu ca Huế để xây dựng những vở ca
kịch dựa trên các tích cổ Trung Quốc và Huế xưa), không lâu sau, bằng tài năng
32
của mình, cô sớm thu hút sự chú ý và được quan tâm bồi dưỡng bằng những vai
diễn trong các vở: Thói đời đen bạc, Tống Nhân Tông khóc biệt Bàng Phi, Điêu
Thuyền vọng nguyệt…
Năm 1956, cùng với Châu Loan, cô công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam.
Gần 30 năm công tác trong Đội ca Huế, Đài tiếng nói Việt Nam, Hồng Lê là
gương mặt điển hình cho việc sưu tầm và bảo tồn vốn cổ, bà đã có những ý kiến
quý giá trong việc chỉnh lý, hoàn thiện một số bài ca Huế, điệu lý, hò, vè quê
hương.
Bên cạnh những gương mặt trên, chúng ta còn được biết đến những nghệ
nhân tên tuổi khác như: Đội Song, Tôn Lục, Mộng Tiên, Vân Hán, Bửu Huấn,
Vĩnh Trân, Lê Hữu Dậu, Dương Văn Lẫm, Nguyễn Hữu Vũ – anh của giáo sư
Nguyễn Hữu Ba, chơi đàn nguyệt, nhị; ông Tịnh – đàn tỳ; Tôn Thất Hường – đàn
tranh; Hồ Đăng Thi – đàn tỳ, nguyệt; ông Mại, Hai Kỳ, Nguyễn Hữu Xướng – độc
huyền. Cùng những danh ca như Thu Tâm, Thu Nhơn, cô Thái, Trần Thị Thu, cô
Điền, cô Yến, Thu Nương, Quế Trân, Bích Liễu, Thanh Xuân, Ba Cúc, Diệu
Cầm, cô Diệp, cô Chanh, cô Năm, cô Lịu, Diệu Liên, Mộng Thu, Băng Tâm, Thu
Đôi, Trúc Anh, Bích Vân, cô Tuyết, cô Lê, cô Minh, cô Sâm, cô Quyến, cô
Dung, Bạch Yến, Ngọc Yến…
Ngoài những khuôn mặt thành danh trước và sau năm 1975, trong lĩnh vực
ca nhạc Huế, còn có một số khuôn mặt nghệ nhân lão thành tiêu biểu:
Nghệ nhân Tôn Thất Toàn
Ông Toàn sinh năm 1915, là một trong những sáng lập viên của Hội Ái Hữu
Cổ nhạc miền Trung vào năm 1962. Ban đầu Hội gồm 8 thành viên, ngoài Tôn
Thất Toàn có Viễn Dung, Trần Kích, Giám Cơ, Trần Tấn, Nguyễn Ngọc Cọng,
Đội Hòa, Trần Kết.
33
Năm 62 tuổi, Tôn Thất Toàn là một trong số nghệ nhân ít ỏi được lựa chọn
tham dự Nhạc hội ca nhạc Huế lần I tổ chức tại Thành phố Huế và được cố nhạc
sĩ Lưu Hữu Phước ghi bằng chứng nhận là một trong những người có công trong
việc bảo vệ truyền thống cổ nhạc ở Huế.
Ngoài tài năng trong lĩnh vực đàn tranh, Tôn Thất Toàn còn giỏi cả đàn
nguyệt và tỳ bà. Ông đã từng cùng Hội Ái Hữu cổ nhạc duy trì và cổ suý cho
ngành ca nhạc Huế, thu hút được nhiều thành viên khác tham gia.
Danh cầm Nguyễn Kế
Nguyễn Kế sinh năm 1918 và so với những nghệ nhân khác cùng thế hệ, ông
đến với loại hình ca nhạc Huế khá muộn, nhưng trong quá trình tập luyện của
mình, ông là tấm gương cho việc hiếu học của những nghệ sĩ đàn ca Huế cao
tuổi. Cả cuộc đời, ông dồn hết cho tiếng tơ của mình với các loại: tỳ bà, đàn bầu,
đàn nguyệt…
Khác với ngón đàn của nghệ sĩ Trần Kích đằm thắm và nhu hoà, tiếng tơ của
người nghệ sĩ này trải ra trên phím đàn một sức sống nội tâm mãnh liệt. Tiếng
đàn của ông tuy dứt, nhưng âm hưởng của nó như vẫn còn vang vọng mãi trong
lòng bạn tri âm.
Ông tham gia vào câu lạc bộ ca Huế, giảng dạy nhiều thế hệ ở trường Đại
học Nghệ thuật, trường Văn hóa Nghệ thuật. Ông cũng đã từng biểu diễn ở Pháp
cùng với ban nhạc cung đình.
Nghệ sĩ Trần Kích
Sinh năm 1921 tại làng Thành Trung, xã Quảng Điền, huyện Quảng Điền,
tỉnh Thừa Thiên Huế, cùng thế hệ với danh cầm Nguyễn Kế, Mạnh Cẩm…
34
Nghệ sĩ Trần Kích thuộc thế hệ đầu tiên giảng dạy thực hành các loại nhạc:
đàn nhị, nguyệt và bầu. Ông chủ yếu truyền dạy những tấu khúc căn bản của cổ
nhạc: các bài đại nhạc, Tam luân cửu chuyển, Phú lục, kèn chiến, Tẩu mã, Nam
xuân, Hồ Quảng, Quả phụ…, các bài tiểu nhạc, 10 bản tấu khúc và các bài bản ca
Huế.
Ông đã đào tạo một số học trò thành đạt trong lĩnh vực ca nhạc như nghệ sĩ
ưu tú La Cẩm Vân, Lệ Hoa, Nguyễn Quý Cát…Ông dược phong tặng Nghệ nhân
dân gian Việt Nam năm 2003 và Nghệ sĩ Ưu tú năm 2007, được Bộ Văn hóa và
Truyền thông Pháp phong tặng tước hiệu Hiệp sĩ Văn hóa và Nghệ thuật năm
2008.
Nghệ sĩ Mạnh Cẩm
Ông sinh năm 1918 trong một gia đình có truyền thống cổ nhạc và tuồng.
Các anh chị của ông như Cửu Dưỡng – học viên lớp đồng ấu ở Thanh Bình Thự,
Bạch Trúc cũng là một nghệ sĩ tuồng nổi danh. Mạnh Cẩm thuở thiếu thời đã
thuộc nhiều làn điệu ca Huế cổ truyền và có tài năng với nhạc cụ trống. Năm 13
tuổi, ông đã là thành viên của Ban nhạc Cung đình.
Nghệ nhân Vân Phi
Vân phi sinh năm 1933 là người quê ở làng Đông Xuyên, huyện Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ thiếu thời, Vân Phi đã hâm mộ ca Hếu, cùng với
chất giọng thiên phú, Vân Phi sớm nổi tiếng với làn điệu Tứ đại cảnh và một số
giai điệu ca Huế khác.
Năm 1962, Vân Phi là giảng viên của trường Quốc gia Âm nhạc, cộng tác
viên của Đài Phát Thanh Huế trong các chương trình Nhạc cổ dân tộc và đã đạt
35
huy chương vàng trong các Liên hoan Nghệ thuật Khu vực hay toàn quốc trong
các năm 1979, 1993…
Nghệ nhân Minh Mẫn (sinh năm 1934), là vợ nghệ nhân Cao Hữu On, cô
có tám người con (đã mất ba người). Từ năm 15 tuổi cô phải vừa đi học vừa buôn
bán (hàng xén) cô rất mê hát nên đã được những nghệ nhân có tiếng chỉ dạy cho
hát ở nhà như ông Cửu Song, Cô Nhơn, Ông Thông Đinh, tới năm 17 tuổi cô ca
rất giỏi, tuy nhiên gia đình không cho cô đi hát vì quan niệm “xướng ca vô loại”.
Cô sinh ra ở Chánh Lộc, Phong Điền, Thừa thiên Huế. Tuy nhiên, khi lớn lên vào
năm 1932 cô gặp thầy Cao Hữu On, từ đó cô có cơ hội để trau dồi tài năng và
tham gia nhiều gánh hát thời bấy giờ như: Thanh Hương (Bảo Đại làm chủ) và
cuối cùng là gánh Kim Thịnh (do một người quê ở An Lỗ làm chủ).
Cô sinh hoạt ở gánh hát Hương Thanh khoảng 2 năm, gánh hát chỉ lưu diễn
tại Huế. Những bài bản cổ được cô Minh Mẫn thể hiện rất điêu luyện, tuy đã lớn
tuổi, dáng người thì nhỏ nhắn. Những giọng ca của cô lại rất khỏe, vừa cao vừa
thánh thót, nghe cô ca tưởng chừng cô chỉ đang ở tuổi 50 mà thôi. Cô đã làm ở
Đàì phát thanh sau khi thành lập được 6 tháng. Trước giải phóng cô đã dạy ca
Huế (từ 1970 – 1974) và người học trò xuất sắc của cô bây giờ là trưởng đoàn
múa hát cung đình huế, nghệ sĩ ưu tú La Cẩm Vân.
Theo suốt con đường mà ca Huế trong giai đoạn của những thập niên 40,
50 và 60 của thế kỷ XX, cô Minh Mẫn đã được tận mắt chứng kiến những chìm
nổi của thời cuộc và ca Huế không thoát được khung cảnh ấy. Với những kiến
thức già dặn về nghề nghiệp, thấu đáo về làn điệu, nghệ nhân Minh Mẫn rất xứng
đáng là một danh ca hàng đầu xứ Huế.
Nghệ nhân Thanh Hương (sinh năm 1938), là người ở làng Thanh
Phước, Quãng Điền, Thừa Thiên Huế, cũng từng là một danh ca của đất cố đô, cô
Thanh Hương có làm ở Đàì phát thanh Huế, sau đó dạy ở trường âm nhạc thường
biểu diển, sinh hoạt các buổi ca Huế.
Nghệ nhân Diệu Liên
36
Sau ngày đất nước thống nhất, cùng với các nghệ sĩ, nghệ nhân đàn anh ,
đàn chị như Minh Mẫn, Vân Phi, Quế Trân, Thanh Hương… Diệu Liên là lớp
nghệ nhân thế hệ thứ hai. Bà tham gia sinh hoạt CLB Ca Huế ( Nhà văn hóa
Huế) từ năm 1983. Vào thời gian đó, ở địa chỉ 47 Trần Hưng Đạo, vào tối thứ 4
và thứ 7 hàng tuần , trong chương trình biểu diễn phục vụ quần chúng nhân dân
thành phố Huế, nghệ nhân Diệu Liên là một trong những giọng ca được khán giả
yêu mến. Nghệ nhân Diệu Liên có thể ca những bài bản lớn như Nam Ai, Nam
Bằng, đặc biệt là làn điệu Nam Xuân. Nghệ nhân Diệu Liên là 1 trong 16 nghệ
nhân được UBND Tỉnh tặng bằng khen về thành tích đóng góp và duy trì loại
hình âm nhạc truyền thống Huế trong 15 năm từ 1980-1995. Bà đã đoạt Huy
chương vàng trong Hội diễn Nghệ thuật quần chúng tại Bắc Giang năm 1976,
Huy chương Bạc Hội thi Dân ca và Ca Huế khu vực miền Trung. Bây giờ đã
bước sang tuổi 61 bà vẫn giữ một giọng ca khỏe khoắn và ấm áp.
Nghệ nhân Thanh Tâm
Thanh Tâm xuất thân trong một gia đình hoạt động nghệ thuật. Cha là ông
Phan Hữu Lễ, một nghệ nhân tuồng, phục vụ trong ban nhạc cung đình. Người
anh của Thanh Tâm cũng là một giọng hát tuồng, từng được bà Từ Cung khen
thưởng. Hơn 10 tuổi, cô bé Thanh Tâm được cha dạy hát tuồng, được học nhạc ở
ban nhạc cung đình và sau này trở thành diễn viên của đoàn Ba Vũ. Thanh Tâm
từng sắm các vai trong các tích tuồng xưa như: Phụng Nghi Đình, Tống Địch
Thanh, Điêu Thuyền, vai đào điên…. Nhưng ca Huế mới là sở đắc của Thanh
Tâm. Năm 14 tuổi, Thanh Tâm đã hát ca Huế trên làn sóng của Đài Phát thanh
Huế, và sau đó là Đài Truyền hình Huế.
Thanh Tâm bồi hồi nhớ lại: “Tôi học ca Huế với thầy Khai, thầy ở trong
ban nhạc cung đình. Thầy dạy ca rất nhiệt tình, ai cũng kính phục thầy. Chúng tôi
được học một ngôi nhà phía sau cung Diên Thọ ở Đại Nội Huế. Tôi học đàn
nguyệt và đàn Tỳ. Tình cảm thầy trò thật cao quý”.
37
Nhưng rồi nghệ thuật cổ truyền của dân tộc, trong đó có ca Huế bị tàn phai.
Năm 1970, Thanh Tâm chuyển sang hát tân nhạc. Sau giải phóng 1975, vốn cổ
dân tộc được bảo tồn và phát huy, giọng ca da diết của Thanh Tâm lại cất lên ở
các hội diễn, câu lạc bộ, đoàn nghệ thuật, trong các buổi sa-lông tri âm, tri kỷ.
Các nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc như Lưu Hữu Phước, Nguyễn Hữu Ba,
Hoàng Châu Ký, Huy Hồng… đều đánh giá cao tài năng nhiều mặt, nhất là giọng
ca của Thanh Tâm…
http://www.cahue.vn/vi/news/code/chuyen-de-01